Monday, June 15, 2015

Cái chết bí ẩn (P/24)



Đầu tiên Ando ghé qua phòng xét nghiệm hóa sinh trả lại máy xử lý văn bản cho Ueda, rồi đi đến khoa bệnh học. 

Anh kẹp dưới tay bản phóng sự đã in đêm hôm trước. Anh định cho Miyashita đọc.

Miyashita ngồi cúi xuống sát bàn, gãi gãi đầu bằng một chếc bút bi. Ando thả bài phóng sự lên mặt bàn cạnh Miyashita, anh ta ngước mắt lên nhìn ngạc nhiên.

"Cậu đọc hộ tôi cái này được không?"

Miyashita chỉ nhìn chằm chằm Ando, ngạc nhiên.

"Có chuyện gì thế?"

"Tôi muốn biết cậu nghĩ gì về cái này."
Miyashita cầm tập văn bản lên. "Khá dài đấy."

"Đúng thế, nhưng trong này có những thứ sẽ làm cậu thích thú đấy. Không mất nhiều thời gian để đọc đâu."

"Cậu không định nói với tôi là cậu đang viết tiểu thuyết trong lúc rảnh rỗi đấy chứ?"

"Kazuki Asakawa đã viết một bài phóng sự về những cái chết."

"Ý cậu là Asakawa của chúng ta?"

"Đúng."

Miyashita bấy giờ trông có vẻ quan tâm khi anh ta lật qua một số trang. "Hừmm."

"Tôi để nó ở đây. Lúc nào đọc xong thì cho tôi biết cậu nghĩ thế nào."

Ando bắt đầu đi, nhưng Miyashita gọi anh lại. "Chờ đã."

"Gì thế?"

Miyashita chống tay lên má và gõ đầu bút bi lên bàn. "Cậu chơi trò giải mã giỏi lắm đúng không?"
"Tôi sẽ không nói là tôi đặc biệt giỏi môn này. Hồi ở trường y, một số bạn tôi đã chơi trò này, nhưng chỉ thế thôi."

"Hừmm", Miyashita nói, cầm bút gõ lên bàn.

"Sao thế?"

Miyashita nhấc khủy tay ra khỏi bản in mà anh ta đang xem và chuyển cho Ando. "Đây là lý do." Anh ta chỉ bút vào giữa trang giấy. Đó là bản in mà anh đã nhìn thấy ngày hôm trước, kết quả phân tích chuỗi virus tìm thấy trong máu Ryuji.

"Cậu cho tôi xem hôm qua rồi mà."

"Tôi biết, nhưng tôi không thể bỏ qua nó được."

Ando cầm tờ giấy lên để trước mặt. Một dãy các bazơ xếp theo cùng một trật tự đã được chèn vào nhiều lần trong một chuỗi hỗn hợp các bazơ khác.

ATGGAAGAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA

Rõ ràng, thật là kỳ lạ khi một dãy bốn hai bazơ xuất hiện vài lần với những khoảng cách phù hợp.
"Và virus của Ryuji là loại virus duy nhất thế này?"

"Đúng. Virus của anh ta là loại virus duy nhất có thêm những bazơ này," Miyashita nói, ánh mắt không rời khỏi Ando. "Cậu không thấy lạ à?"

"Tất nhiên là có."

Tiếng gõ bút bi dừng lại.

"Ý nghĩ thoáng qua trong đầu tôi có thể là một dạng mật mã."

Ando nấc lên. Anh không nhớ là đã kể gì cho Miyashita về chuyện xảy ra sau khi mổ tử thi Ryuji chưa. Không phải là góc tờ báo, và chắc chắn không phải là việc anh đã tìm ra được rừ "ring". Thế mà bây giờ Miyashita lại nói về mật mã.

"Cứ cho đó là mật mã đi, thế thì ai gửi nó?"

"Ryuji."

Ando nhắm nghiền mắt lại. Đó là ý nghĩ anh đã hết sức cố gắng tránh nghĩ đến, và giờ Miyashita lại bày ra trước mặt anh.

"Ryuji chết rồi. Chính tôi đã mổ tử thi."

Miyashita không một chút bối rối. "Ờ, thế nào cũng được. Thử xem cậu có thể giải mã được không?"
Liệu thực sự có khả năng rằng chuỗi bazơ kia có thể bằng cách nào đó được chuyển thành một từ được không? 

Giống như các chữ số 178136 đã nhanh chóng cho ra từ RING, có lẽ bốn mươi hai chữ cái này có thể được dùng để tạo thành những từ nào đó. Có lẽ chúng thực sự mang một thông điệp quan trọng. Có phải chính Ryuji, từ nơi hầm mộ, đã khắc đi khắc lại nó trong thi thể của anh ta?

Tay Ando, đang nắm chặt bản in, run lên khi thấy chính mình đang bị đẩy vào ngõ tối giống như Asakawa. Nhưng không khi nào anh có thể từ chối lời đề nghị thẳng thắn của Miyashita. 

Ý nghĩ rằng nó có thể là một mật mã cũng đã xảy đến với Ando khi lần đầu tiên anh thấy chuỗi bazơ đó, nhưng anh đã chôn sâu ý nghĩ này trong não bộ. Anh sợ nếu không chôn nó, cái khuôn khổ khoa học mà anh gắn cuộc đời mình vào đấy sẽ bị biến dạng thêm nữa. Mọi chuyện đang đe dọa sẽ vượt qua khả năng lĩnh hội của anh.

"Cậu cứ giữ lấy. Cứ thư thả thôi, xem cậu có thể làm gì với nó."

Miyashita được cho là một nhà khoa học. Ando không thể hiểu, tại sao anh ta có thể nói về những ý tưởng phi khoa học này quá dễ dàng.

"Tôi tin ở cậu. Cậu sẽ làm được," Miyashita nói, tay vỗ vào mông Ando.
Còn tiếp

Saturday, June 13, 2015

Cái chết bí ẩn (P/23)



Đọc đến đây, Ando đứng dậy, tay vẫn cầm bản phóng sự, và đi mở cửa sổ. Cảm giác như đang trèo xuống giếng bằng một sợi dây khiến anh nghẹt thở. 

Không gian bị thu hẹp bằng một nửa; dưới ngôi nhà gỗ, khoảng không vẫn tối dù là vào ban ngày, và ở đó có một cái giếng, rộng chưa đến một mét. Nó tạo cho anh một thoáng sợ hãi vì bị giam giữ; anh phải hít thở không khí bên ngoài. 

Ngay bên dưới cửa sổ, anh có thể nhìn thấy rừng cây tối om xung quanh Điện thờ Minh Trị Thiên hoàng lay động trong làn gió nhẹ. Những trang giấy trên tay anh cũng rung rinh bởi chính làn gió kia. 

Trang cuối của bản thảo bài phóng sự đang nằm ngay trong máy in. Một trang nữa là bài phóng sự của Asakawa sẽ được in xong. Ando nghe thấy âm thanh của chiếc máy in khi nó hoàn thành công việc. Anh quay lại nhìn máy xử lý văn bản và chỉ thấy một trang giấy gần như trống không đang nhìn lại anh.

Anh cầm trang cuối cùng lên. Trên đó viết:

Chủ nhật, ngày 21 tháng Mười

Bản chất của virus là tự sinh sản.

Bùa phép: sao một bản cuốn video.

Và đó là tất cả. Nhưng nó là phần quan trọng nhất.
21 tháng Mười là ngày Asakawa gặp tai nạn. Buổi sáng hôm trước, Ando mổ tử thi của Ryuji và đã gặp Mai tại văn phòng cơ quan giám định pháp y. Mặc dù bản thảo phóng sự kết thúc đột ngột, nhưng Ando có thể tự hiểu được phần còn lại của câu chuyện.

Ngày 19 tháng Mười, di hài của Sadako Yamamura được giao lại cho người thân của cô. Nhưng rốt cuộc đó không phải là kết thúc của câu chuyện. Ngay khi Asakawa ngồi trong một khách sạn ở Oshima viết bài phóng sự chi tiết, thì Ryuji đang hấp hối ở nhà mình tại Đông Nakano. 

Khi về Tokyo và biết được cái chết của Ryuji, Asakawa tức tốc đến nhà Ryuji. Ở đó anh ta gặp Mai Takano và hỏi đi hỏi lại cô điều mà với cô dường như là những câu hỏi kỳ quặc và không phù hợp.
Ryuji thực sự không nói gì với cô lúc lâm chung sao? Không một lời, chẳng hạn như, về một cuốn băng sao?

Để hiểu tại sao Asakawa lại hoang mang. Anh ta tin rằng đã thoát được tử thần bằng cách tìm ra bí mật của cuốn băng, và giờ đây phát hiện ra mình đã nhầm. Lời nguyền vẫn còn đó. Và Asakawa được bỏ qua mà không có lấy một manh mối gì. 

Tại sao Ryuji chết còn Asakawa vẫn sống? Không chỉ thế, hạn chót cho vợ và con của Asakawa đang đến, 11 giờ ngày hôm sau. Do đó Asakawa phải tìm bùa phép lại từ đầu, lần này một mình và chỉ có vài tiếng đồng hồ để thực hiện. 

Theo cơ bản, anh ta nhận ra rằng cho dù cuốn băng kia có muốn anh ta làm điều gì đi nữa, thì anh ta hẳn đã thực hiện điều đó tại một thời điểm trong tuần trước mà không hề biết. Điều mà anh ta có thể chắc chắn rằng Ryuji đã không làm. 

Có thể là gì đây? Có lẽ anh ta dành cả đêm để suy nghĩ. Và rồi cuối cùng, vào buổi sáng ngày 21, linh cảm của anh ta đã lóe lên, có lẽ như vậy, và vụt chạm đến điều mà anh ta chắc chắn là giải pháp. Anh ta nhanh chóng ghi nó lại trên máy xem văn bản.

Chủ nhật, ngày 21 tháng Mười

Bản chất của virus là tự sinh sản.

Bùa phép: sao một bản cuốn video.

Điều mà Asakawa ám chỉ ở đây không gì khác ngoài virus bệnh đậu mùa. Ngay trước khi chết, Sadako Yamamura có quan hệ xác thịt với nạn nhân bệnh đậu mùa cuối cùng của Nhật Bản, ông Jataro Nagao. 

Dĩ nhiên có thể giả định rằng virus đã xâm nhập vào cơ thể cô. Bị đẩy đến bờ tuyệt chủng, loại virus này đã mượn năng lực phi thường của Sadako để thực hiện mục đích tồn vong của nó, có nghĩa là tự sinh sản. Nhưng một khi ở dưới dạng một cuốn băng video, virus không tự sinh sản được. Nó phải làm việc đó thông qua con người, bắt buộc họ phải sao chép cuốn băng. Nếu phải điền vào phần đã mất ở cuối đoạn băng, phần đó sẽ như thế này:

Người nào đã xem những hình này sẽ chịu định mệnh phải chết vào giờ này đúng một tuần sau. Nếu ngươi không muốn chết, phải làm theo đúng những chỉ dẫn sau. Sao cuốn băng ra một bản và đưa nó cho người khác xem.

Theo hướng này, mọi việc đều hợp lý. Ngay hôm sau khi xem cuốn băng, Asakawa đã cho Ryuji xem, và anh ta cũng sao một bản cho Ryuji. Anh ta giúp virus phát tán mà không hề biết. Nhưng Ryuji không bao giờ sao chép lấy một bản.

Khi chắc chắn đã có câu trả lời, Asakawa mang chiếc đầu máy VCR lên xe và lái đi đâu đó. Chắc chắn anh ta định sao thêm hai bản và đưa cho hai người nữa xem - một để cứu vợ, và một để cứu con gái nhỏ. Những người được anh ta cho xem cuốn băng, sau đó phải tìm những con mồi mới, những người khác để cho họ một bản sao cuốn băng. Nhưng đó không phải là vấn đề cấp thiết. Điều quan trọng là phải cứu tính mạng của vợ con anh ta.

Nhưng ngay khi anh ta đang vô cùng nhẹ nhõm vì đã cứu được tính mạng của những người thương yêu, Asakawa đưa tay ra ghế sau chạm vào vợ và con gái mình và thấy họ đã lạnh toát. Anh ta mất lái.

Ando có thể hiểu được tình trạng căng trương lực hiện giờ của Asakawa. Anh ta không chỉ suy sụp khi mất đi gia đình, mà chắc chắn còn bị hành hạ bới câu hỏi: bản chất thực sự của bùa phép là gì?

Mỗi lần anh ta nghĩ là đã tìm ra, thì câu trả lời lại trôi tuột qua tay anh ta, lại thay đổi, và cướp đi một tính mạng khác. 

Giận dữ, đau đớn, và không ngớt lặp lại câu hỏi: 

Tại sao? Tại sao anh ta vẫn sống?

Ando đặt các trang bản thảo thành một tập trên bàn. Rồi anh tự hỏi:

Mình có thực sự tin vào chuyện vớ vẩn này không?

Anh lắc đầu.

Thực sự mình không biết.

Anh không biết nói gì khác. Chính mắt anh nhìn thấy khối u bất thường trong động mạch vành của Ryuji. 

Bảy người khác bị chết vì cùng một nguyên nhân. Người ta tìm thấy trong máu của họ một loại virus gần giống với virus bệnh đậu mùa. Và Mai đã biến mất đi đâu? Còn bầu không khí quái dị trong căn phòng của cô thì sao, nó dường như đã bị bỏ trống? 

Dấu hiệu rợn tóc gáy rằng có cái gì đó trong căn phòng? Những dấu vết còn lại trên cuốn băng vẫn còn trong đầu máy VCR của Mai? Liệu cuốn băng có còn đang phát tán? Liệu nó có tiếp tục cướp đi sinh mạng của những nạn nhân mới? Càng nghĩ anh càng đặt thêm nhiều câu hỏi.

Anh tắt máy xem văn bản và lấy chai whisky trên tủ. Anh biết đêm nay mình sẽ không ngủ được nếu không có rượu trợ giúp.
Cái chết bí ẩn (P/24)

Sunday, June 7, 2015

Cái chết bí ẩn (P/22)



Vài trang tiếp theo chứa những đoạn mô tả toàn bộ nội dung cuốn băng. Khi đọc nó, Ando có thể thấy trong đầu mình một màn hình TV chứa đầy hình ảnh thay đổi liên tục.

Một thứ gì đó sền sệt màu đỏ phun lên màn hình. Tiếp sau là cảnh một ngọn núi mà nhìn qua cũng biết là núi lửa đang hoạt động. Dung nham trào ra từ miệng núi; mặt đất ầm ầm chuyển động. Cảnh phun trào chiếu sáng cả bầu trời đêm. Rồi cảnh này đột nhiên chấm dứt, thay thế bởi màn hình nền trắng, chỉ hiện lên chữ "núi" màu đen, chữ này mờ dần rồi biến mất. Sau đó là cảnh hai viên xúc xắc đang xoay dưới đáy bát.

Cuối cùng một dáng người xuất hiện trên màn hình. Một bà cụ da nhăn nheo ngồi trên chiếu tatami. Bà cụ đang nhìn thẳng vào máy quay nói điều gì đó. Bà cụ nói một thứ phương ngữ gần như không thể hiểu được, nhưng ít nhiều qua những âm thanh phát ra, anh có thể chắc rằng bà cụ đang tiên đoán tương lai của ai đó, cảnh báo người ấy.

Tiếp theo là một đứa trẻ sơ sinh đang gào khóc. Không hề có mối liên hệ rõ ràng giữa các cảnh. Cảnh này nối tiếp cảnh kia hoàn toàn bất ngờ và ngẫu nhiên như người ta rút những quân bài.

Đứa trẻ biến mất, thay vào đó là hang trăm khuôn mặt tràn lấp màn hình cứ thế nhân lên như sự phân bào, trên nền hàng vô số giọng nói phát ra những lời buộc tội: Đồ dối trá! Quân lừa đảo! Sau đó là cảnh một chiếc tivi cũ, màn hình hiện lên chữ sada.

Rồi khuôn mặt người đàn ông xuất hiện. Ông ta đang thở hổn hển và vã mồ hôi. Có thể thấy phía sau ông ta là một bụi cây rậm rạp. Mắt ông ta đỏ ngầu hung tợn; miệng chảy nước dãi và méo mó do cười thét lên. 

Bên vai trần của ông ta có một vết thương hõm sâu, máu từ đó túa ra. Rồi không biết từ đâu lại vang lên tiếng khóc của một đứa bé. Ở chính giữa màn hình là vầng trăng tròn, từ đó những hòn đá to bằng nắm tay rơi xuống, chạm đất với những tiếng kêu thịch thịch.
Cuối cùng, có thêm nhiều chữ nữa xuất hiện trên màn hình.

Những ai đã xem những hình ảnh này sẽ chết đúng giờ này tuần sau. Nếu ngươi không muốn chết, hãy làm theo đúng những chỉ dẫn sau...

Rồi cảnh tượng thay đổi hoàn toàn. Thay vì mô tả biện pháp để tránh cái chết, màn hình bây giờ lại hiện lên chương trình quảng cáo hương diệt muỗi. Mục quảng cáo kết thúc và hình ảnh kỳ lạ trước đó xuất hiện, hay đúng hơn là ký ức về nó.

Vào lúc kết thúc chuỗi hình ảnh kỳ lạ đó, Asakawa đã hiểu được chính xác hai điều. Thứ nhất, những ai đã xem cuộn băng này đều chịu số phận phải chết đúng một tuần sau khi xem. 

Và thứ hai, có một cách tránh được định mệnh này, nhưng giải pháp đó đã bị đè một cách cố ý. Bốn thanh niên, những người đầu tiên xem cuộn băng, đã xóa nó trong một trò đùa độc ác tinh quái. Điều duy nhất Asakawa có thể làm là bỏ cuốn băng vào trong túi đồ và vội vã rời khỏi nhà B-4.

Ando thở sâu và đặt bản thảo thiên phóng sự sang bên cạnh.

Chết tiệt.

Trong bài phóng sự, Asakawa đã kể lại cẩn thận và chi tiết những hình ảnh kỳ quái kéo dài hai mươi phút trên cuốn băng. Anh ta đã vận dụng mọi nỗ lực để tái tạo, chỉ bằng ngôn ngữ, những gì chuyển tải thông qua hình ảnh và âm thanh, và đã rất thành công. Những cảnh đó vẫn khuấy đảo lên trong tâm trí Ando, rõ ràng như thể như chính anh đã nghe và xem chúng. Anh lại thở dài, đột nhiên thấy kiệt sức. Hay có lẽ đó không phải là mệt mỏi. Có lẽ giờ đây anh đang cảm thấy nỗi sợ của Asakawa là của chính mình, và muốn tống khứ nó đi bằng cách nào đó.

Nhưng thậm chí một khắc ngừng nghỉ chỉ kích thích anh ham muốn được biết nhiều hơn. Anh nhấp một ngụm trà, cầm lên trang tiếp theo của bài phóng sự, và bắt đầu đọc tiếp, thậm chí còn đọc nhanh hơn trước.

Điều đầu tiên Asakawa làm khi quay về Tokyo là gọi điện cho Ryuji Takayama và kể cho anh ta chuyện đã xảy ra. Asakawa không có thời gian hay can đảm để một mình giải quyết chuyện này. Anh ta cần một đối tác đáng tin cậy, và người đầu tiên anh nghĩ đến là Ryuji, bạn anh ta quen từ thời trung học. Anh ta cũng liên lạc với Yoshino, nhưng Yoshino từ chối xem cuốn video. Bất kể có thực sự tin vào cuốn băng hay không, nếu có một khả năng mỏng manh rằng thảm họa sẽ đổ xuống đầu anh ta do xem cuốn băng, thì Yoshino muốn tránh xem nó.

Nhưng Ryuji không từ chối. Sau khi nghe nói đến cuốn băng sẽ giết chết bất cứ ai sau khi xem nó đúng một tuần, câu đầu tiên anh ta nói là, trước hết hãy để tôi xem cuốn băng đã.

Do đó, Ryuji đã xem cuốn băng tại căn hộ của Asakawa, và bị mê hoặc. Xem xong anh ta đề nghị Asakawa sao chép cho một bản.

Chữ "sao chép" khiến cho Ando ngồi thằng dậy và chú ý. Giờ anh nghĩ có thể hiểu được con đường di chuyển của cuốn băng. Bản gốc lấy từ Villa Log Cabin nhiều khả năng vẫn do Asakawa nắm giữ. Nó đã nằm trên chiếc đầu máy trên xe của Asakawa vào thời điểm tai nạn, được giao cho anh trai của Asakawa là Junichiro, sau đó bị vứt đi. 

Còn một cuốn băng khác, là cuốn băng ở trong căn phòng của Mai, chỉ còn lại một chút đoạn mở đầu. Đây có lẽ là bản mà Asakawa đã sao lại cho Ryuji vào đêm đầu tiên đó. Nó có nhan đề trên nhãn, bằng chữ viết tay của một người đàn ông. Có lẽ là của Asakawa. Khi Ryuji nhờ Asakawa sao cho một bản, thì thay vì lấy một cuốn băng mới, Asakawa dùng lại cuốn băng cũ mà ban đầu anh ta dùng để ghi một chương trình ca nhạc. 

Cuốn băng này được truyền qua tay Ryuji rồi đến tay Mai. Điều đó rất hợp lý. Nhưng Mai nhận cuốn băng lúc nào? Mai chưa bao giờ nói với Ando rằng cô đã có được cuốn băng. Điều đó, theo Ando đoán, có nghĩa cô tình cờ thấy nó vài ngày sau khi Ryuji chết, và đã xem cuốn băng mà không biết rằng nó nguy hiểm.

Trong trường hợp nào đi nữa, cuốn băng đã được sao chép lại ở căn hộ của Asakawa. Ando cảm thấy cần phải lưu ý điều này trong đầu.

Vậy là Ryuji đã mang bản sao cuốn băng về nhà mình và bắt tay vào tìm thông điệp bị xóa (anh ta và Asakawa gọi điều này là "bùa phép"). Cả hai người đều thắc mắc, cuốn băng kỳ lạ này xuất hiện tại Villa Log Cabin để làm gì. 

Lúc đầu họ nghĩ rằng nó được một chiếc máy quay video ghi rồi để lại đấy, nhưng hóa ra không phải vậy. Ba ngày trước khi những thanh niên kém may mắn kia đến thuê phòng, đã có một gia đình ở trong nhà B-4; họ đã đặt một cuốn băng vào VCR và để chế độ RECORD. 

Sau đó họ quên bẵng nó và bỏ lại đấy khi ra về. Như vậy hình ảnh trong cuốn băng không phải được quay ở một nơi nào khác rồi mới đưa đến ngôi nhà gỗ, mà là một dạng truyền phát chưa biết đến đã được chụp lại trên cuốn băng khi đầu máy chạy ở chữ ghi. 

Những người tiếp theo đến ngôi nhà gỗ là bốn nạn nhân trẻ kia. Rảnh rỗi, họ quyết định xem một chương trình video; khi họ bật máy VCR lên, cuốn băng chui ra. Họ đã xem nó. Lời đe dọa ở cuối cuốn băng hẳn đã làm họ thích thú. Làm như chúng ta sẽ chết thật trong một tuần nữa nếu không làm theo điều cuốn băng chỉ dẫn? 

Thế rồi họ quyết định chơi một trò tinh nghịch, bằng cách xóa đi phần giải pháp; điều đó sẽ làm cho vị khách tiếp theo đến thuê nhà phải sợ hãi. Tất nhiên, những chàng trai trẻ kia không bao giờ thật sự tin vào lời nguyền của cuốn băng. Nếu tin thì họ không bao giờ đi đến hành động nguy hiểm như thế. 

Dù sao đi nữa, ngày hôm sau người quản lý đã tìm thấy cuốn băng, ông ta để nó ở trên giá trong văn phòng, nó nằm đó không ai để ý cho đến khi Asakawa đến.

Vậy thì: làm thế nào những hình ảnh được đưa vào chiếc đầu máy trong khi nó đang chạy chế độ ghi? Asakawa có ý nghĩ rằng một sức mạnh kỳ lạ nào đó đã kiểm soát sóng trong không gian, do đó anh ta cố gắng xác định một nguồn phát sóng như thế. 

Trong lúc ấy, khi Asakawa đi ra ngoài, vợ và con gái anh ta thấy cuốn video vẫn nằm trong đầu máy VCR và đã xem nó. Giờ thì Asakawa bị thôi thúc bởi mong muốn giữ được không chỉ tính mạng mình, mà còn của vợ con anh ta nữa.

Rồi Ryuju phát hiện ra một điều đáng kinh ngạc. Anh ta ngồi nhà xem đi xem lại cuốn băng rồi chợt nảy ra một ý tưởng. Anh ta vẽ ra một sơ đồ và phát hiện cuốn băng có thể chia thành mười hai cảnh, thuộc hai nhóm: nhóm những cảnh trừu tượng dường như gồm những điều có thể gọi là hình ảnh trong tâm trí, và nhóm những cảnh thực gồm những điều được nhìn thấy qua một đôi mắt thường. 

Ví dụ, cảnh núi lửa phun và khuôn mặt của người đàn ông rõ ràng là những điều nhìn thấy được trong thực tế, trong khi ánh sáng trong bóng đêm giống như đèn đom đóm lúc mở đầu cuốn băng thì giống như thứ do tâm trí gợi lên - như điều gì đó từ giấc mơ. 

Vậy nên Ryuji gọi hai nhóm là "thực" và "trừu tượng", để tiện cho việc so sánh. Xem xét sâu hơn nữa, anh ta nhận thấy trong những cảnh "thực", có những lúc màn hình bị che phủ bởi cái gì đó giống như một tấm mạng đen, chỉ trong một phần nhỏ của một giây. 

Trong những cảnh "thực", những khoảnh khắc này xảy ra với tần suất mười lăm lần mỗi phút, trong khi ở những cảnh "trừu tượng" chúng hoàn toàn không xuất hiện. 

Điều đó có nghĩa thế nào? Ryuchj kết luận tấm mạng đen đó trên thực tế chính là một lần chớp mắt. 

Dường như nhửng cảnh đó được nhìn bằng con mắt thường, chứ không phải là một chuỗi chỉ nhìn thấy được bằng "con mắt" của tâm trí. 

Ngoài ra tần số mạng đen xuất hiện khớp với tần số chớp mắt bình quân của nữ giới. Vì vậy, khá chắc chắn khi cho rằng chúng là những cái chớp mắt. Điều này đương nhiên dẫn tới kết luận rằng hình ảnh trên cuốn băng đã được chụp lại không phải bằng một máy quay video, mà là từ hình ảnh và sự tưởng tượng của một cá nhân và đưa lên cuốn băng bằng cách chiếu hình qua ý nghĩ.

Ando thực sự khó mà tin được phần này. Ý nghĩ rằng người ta có thể ghi các hình ảnh lên một cuốn băng bằng trí óc vô cùng phi lý. 

Anh có thể sẵn sàng, dù chỉ phần nào thôi, chấp nhận khả năng ghi hình bằng ý nghĩ lên phim ảnh tĩnh, nhưng đối với ảnh động? Trước hết, đó là một cách thức khác hoàn toàn. 

Để tiếp tục, Ando phải tạm bỏ qua điểm này, thậm chí khi anh ngưỡng mộ trí tuệ của Ryuji.

Giả sử rằng ai đó đã ghi lại cuốn băng một cách siêu nhiên, thì câu hỏi tiếp theo là: ai? Asakawa và Ryuji tập trung vào điểm này, họ tìm đến Phòng Tưởng niệm Tetsuzo Miura ờ Kamamura. Là một nhà nghiên cứu các hiện tượng tâm linh lạ thường, ông Miura đã dành cả đời mình để truy tìm những điều huyền bí trên toàn Nhật Bản. 

Các tập hồ sơ chứa những phát hiện của ông được lưu lại ở nhà tưởng niệm. Hai người đã được phép vào xem hồ sơ, gồm trên một nghìn tập, họ nghĩ rằng một nhà ngoại cảm có sức mạnh đến mức ghi được hình động lên một cuốn băng video sẽ không thể vượt ra khỏi tầm chú ý của giáo sư Miura. Và sau nhiều giờ tìm kiếm, họ tìm thấy một ứng cử viên khả dĩ.

Tên cô gái là Sadako Yamamura. Cô sinh ra ở thị trấn Sashikiji, trên đảo Izu Oshima.

Theo một tập trong tập hồ sơ của cô, lúc mười tuổi cô đã có khả năng ghi các ký tự yama (núi) và sada, các ký tự trong tên viết của cô, lên một đoạn phim. Những ký tự này đã xuất hiện trên cuốn video. 

Khi chắc chắn Sadako Yamamura chính là người họ đang tìm, ngày hôm sau Ryuji và Asakawa lên một con thuyền đến đảo Izu Oshima. Họ hy vọng khi biết thêm cô được dạy dỗ thế nào, tính cách cô ra sao, sẽ soi sáng được một số bí mật trong cuốn băng. 

Sadako đã đe dọa bất ai cứ ai xem những hình ảnh của cô sẽ chết, nhằm mục đích buộc người xem phải làm gì đó. Chính cuốn băng đã chứa mong muốn của cô rằng hành động đó sẽ được thực hiện. 

Điều quan trọng là phải tìm ra được Sadako mong muốn cái gì. Tại thời điểm đó, Ryuji đã có ý nghĩ mơ hồ là Sadako không còn sống nữa. Anh ta tin rằng, lúc cận kề cái chết, cô đã bộc lộ ước muốn cuối cùng chưa được đáp ứng của mình dưới hình thức phóng chiếu hình ảnh bằng phép ngoại cảm, nghĩa là truyền lại ước muốn cho một người khác. Lòng căm thù sâu kín của cô cuối cùng cùng truyền vào cuốn băng.

Với trợ giúp của một cộng tác viên tờ Tin tức Hằng ngày tại Oshima và sự giúp đỡ của Yoshino ở Tokyo, những người mà họ liên lạc thường xuyên, Asakawa và Ryuji đã gom được một tập hồ sơ về Sadako Yamamura.

Cô sinh năm 1947, là con gái của bà Shizuko Yamamura, người từng là một hiện tượng huyền bí tạo nên tiếng vang lớn nhất thời trong giới truyền thông quốc gia, và ông Heihachiro, một phó giáo sư Tâm thần học tại Đại học Taido, ông đã tham gia nghiên cứu hiện tượng siêu nhiên mà đối tượng là Shizuko. 

Lúc đầu, ba người Ikuma, Shizuko và Sadako được công chúng đón nhận do trí tò mò đơn thuần, và thực tế họ đã trở thành con cưng của giới truyền thông như một thứ thời trang. Nhưng một tổ chức hàn lâm uy tín đã tuyên bố rằng sức mạnh của Shizuko là giả tạo, công chúng quay sang công kích họ, và họ trở thành chủ đề bị tấn công nặng nề trên báo chí. Ông Heihachiro bị sa thải khỏi trường đại học, rồi mắc bệnh lao, còn bà Shizuko bị suy nhược thần kinh và cuối cùng gieo mình xuống miệng núi Mihara, ngọn núi lửa trên đảo Izu Oshima.

Sadako được họ hàng mang về nuôi trên đảo, cô sống ở đấy cho đến khi tốt nghiệp phổ thông. Một lần, vào năm học lớp bốn, cô trở nên nổi tiếng trong trường khi dự đoán núi lửa Mihara phun trào, nhưng ngoài chuyện đó ra cô dường như không thể hiện bất cứ năng lực nào được thừa hưởng từ người mẹ. 

Sau khi học xong phổ thông, cô chuyển đến Tokyo, tại đây cô tham gia một đoàn kịch với hy vọng trở thành diễn viên. Chính Yoshino là người tìm ra dấu vết của cô ở đoàn kịch này.

Từ ngoài đảo, Asakawa gọi điện cho Yoshino và đề nghị anh ta tìm đến địa chỉ của đoàn kịch tại Yotsuya, Tokyo. Yoshino làm theo, và khi đến đó, anh ta được một người đàn ông tên là Arima, trưởng đoàn kịch, cho biết thêm nhiều thông tin về Sadako. 

Đã hai lăm năm kể từ khi Sadako gia nhập đoàn kịch, nhưng ông ta nhớ cô rất rõ. Cô dường như có một năng lực siêu nhiên; cô có thể dùng ý chí để chiếu các hình ảnh lên màn hình một chiếc tivi đã rút phích cắm. 

Nếu điều này là đúng, thì năng lực của Sadako vượt rất xa mẹ cô. Ở đoàn kịch, Yoshino lấy được một tấm hình chụp Sadako. Người ta vẫn giữ lại bản lý lịch của cô trong hồ sơ, và trong đó có hai tấm hình đen trắng chụp khi cô gia nhập đoàn kịch. 

Một tấm ảnh chụp chân dung, còn tấm kia chụp toàn thân. Cả hai tấm ảnh đều cho thấy Sadako có những đường nét cân đối hoàn hảo vượt xa khái niệm "đẹp".

Yoshino không thể xác định những gì xảy ra với Sadako khi cô rời đoàn kịch, do đó anh ta gửi fax những tấm ảnh và các thông tin khác thu thập được cho Asakawa, lúc này ở tại văn phòng của báo Tin tức Hằng ngày ở đảo Izu Oshima.

Khi đọc bản fax và biết được rằng dấu vết của Sadako đã bị mờ, Asakawa chán nản. Nếu họ không thể tìm thấy cô thì làm sao có thể hy vọng tìm ra bùa phép?

Một lần nữa chính Ryuji lại nảy ra một ý. Anh ta nhận ra rằng có lẽ không nhất thiết phải lần theo từng cử động của Sadako. Thay vì thế, có lẽ họ nên tập trung vào hiện trường nhà Villa Log Cabin B-4 và cố tìm hiểu xem tại sao những hình ảnh lại xuất hiện ở đó. Hẳn Sadako phải có mối liên hệ nào đó với nơi này.

Họ nhận ra tất cả những ngôi nhà ở Pacific Land, Nam Hakone, đều được xây mới. Không phải không có khả năng có những công trình gì khác từng tọa lạc ở đó. Asakawa liên lạc với Yoshino ở Tokyo và đề nghị anh ta thử theo hướng điều tra mới: tìm hiểu xem trước khi khu nghỉ mát được xây thì đã có cái gì ở đó.

Yoshino gửi fax cho Asakawa sáng hôm sau. Thì ra trước đây ở khu đất này là bệnh viện lao phổi. Anh ta còn gửi cho họ một sơ đồ bệnh viện này. Kèm theo bản fax còn có tên, địa chí và lý lịch một người có tên Jotaro Nagao, 57 tuổi, một bác sĩ đa khoa và nhi khoa hành nghề ở Atami. 

 Trong khoảng thời gian năm năm, từ 1962 đến 1967, ông ta làm việc ở Trại Điều dưỡng ở Nam Hakone. Điều này dường như gợi ý rằng muốn biết thêm bất kỳ điều gì nữa về viện điều dưỡng thì tốt nhất nên lấy từ Nagao.

Do đó, chỉ với những chi tiết có được từ Yoshino, Asakawa và Ryuji bắt chuyến phà cao tốc đến Atami. 

Đã được một tuần kể từ ngày Asakawa xem cuốn băng. Nếu họ không tìm ra "bùa phép" trước mười giờ tối, Asakawa sẽ chết. Hạn chót của Ryuji là mười giờ đêm tiếp theo. Giờ chết của vợ và con gái Asakawa sẽ là mười một giờ sáng hôm sau.

Hai người đàn ông lên chiếc xe mà họ đã thuê và đi thẳng đến văn phòng bác sĩ Nagao. Hy vọng của họ về việc sẽ có được dù chỉ một chút thông tin từ vị bác sĩ này, đã được đền đáp. 

Khi đối mặt với vị bác sĩ, cả Asakawa và Ryuji đều nhận ra ông ta. Gần cuối cuốn băng là hình ảnh một người đàn ông từ phần thắt lưng trở lên, thở hổn hển và vã mồ hôi, máu chảy ra từ một vết rách sâu trên vai. Mặc dù ông ta đã già và rụng nhiều tóc, nhưng Nagao chắc chắn là người đàn ông đó. 

Nadako đã nhìn khuôn mặt ông ta rất sát. Không những thế, trong "đôi mắt" của cô, ông ta có cái gì đó độc ác.

Bằng sự xấc xược điển hình, Ryuji đã dồn ép Nagao cho đến khi anh ta thú nhận hết. Ông ta kể cho họ tất cả về buổi chiều hè nóng rực cách đây hai mươi lăm năm...

Nagao bị nhiễm bệnh đậu mùa từ một bệnh nhân khi ông ta đi khám bệnh tại một khu cách ly của viện điều dưỡng trên núi, và chiều hôm đó, những triệu chứng sơ khởi của bệnh bắt đầu xuất hiện. Nhưng, mặc dù bị đau đầu và sốt, lúc đầu ông ta không nhận ra rằng mình bị đậu mùa, tiếp tục đi chữa trị cho các bệnh nhân lao như bình thường. 

Ông ta nghĩ chỉ là bị cảm. Rồi ông ta gặp Sadako Yamamura trong sân bệnh viện. Cô thường đến bệnh viện để thăm cha mình đang là bệnh nhân ở đó. Vì mới rời khỏi đoàn kịch, Sadako không còn nơi nào khác để đi, nên cô hay đi thăm cha.

Chỉ một lần thoáng nhìn Sadako, Nagao đã bị sắc đẹp của cô chinh phục. Ông ta tiến lại gần cô và họ bắt đầu trò chuyện, và rồi, như thể bị dẫn dắt bởi điều gì đó bên ngoài bản thân, ông ta dẫn cô đến một ngôi nhà bỏ hoang ở sâu trong rừng. 

Ở đó, trước một cái giếng cũ, ông ta đã cưỡng hiếp cô. Chính lúc ấy Sadako đã cắn vào vai ông ta trong nỗ lực vô vọng nhằm kháng cự. Giữa máu chảy và cơn điên cuồng sôi sục, ông ta mất một lúc mới nhận thấy sự đặc biệt của Sadako. 

Cô bị hội chứng tinh hoàn nữ giới, một tình trạng rất hiếm xảy ra, khi một người có cơ quan sinh dục của đàn ông lẫn đàn bà. 

Người bị hội chứng này thường có ngực và âm đạo, nhưng không có dạ con và ống dẫn trứng. Khi mặt quần áo, người đó có dáng vẻ hoàn toàn là một phụ nữ, nhưng nhiễm sắc thể lại có dạng XY của một người đàn ông, và không có khả năng mang thai.

Nagao đã bóp cổ Sadako và ném xác cô xuống giếng.Rồi ông ta ném đá xuống giếng vùi xác cô.

Sau khi nghe lời thú nhận của Nagao, Asakawa đưa cho ông ta xem sơ đồ khu nghỉ mát và đề nghị vị bác sĩ chỉ cho anh ta vị trí của cái giếng trên bản đồ. 

Nagao có thể chỉ khu vực theo cách chung chung, nơi đó hiện giờ là Villa Log Cabin. Asakawa và Ryuji ngay lập tức đến Pacific Land.

Ở đó, họ bắt đầu tìm kiếm cái giếng ở vùng lân cận khu nhà gỗ. Họ tìm thấy nó ở dưới nhà B-4. Ngôi nhà gỗ được dựng trên một mặt đất nghiêng thoai thoải, và khi thăm dò khoảng không bên dưới hiên nhà, họ nhìn thấy mép của một cái giếng cũ có nắp bằng bê tông che lại. 

Nếu lòng căm thù của Sadako thoát ra ngoài giếng, nó sẽ tác động đến chiếc TV và đầu máy VCR trong ngôi nhà gỗ bên trên. Cuốn băng nằm ở vị trí hoàn hảo để nhận sự chiếu hình bằng phép ngoại cảm.

Asakawa và Ryuji gỡ vài tấm ván, bò xuống dưới ngôi nhà, lật nắp giếng lên, và bắt đầu tìm di hài của Sadako. Cả Asakawa và Ryuji lúc đó đều giải thích "bùa phép" bị mất là: Sadako muốn người nào xem cuốn băng phải giải phóng cho cô khỏi nơi tối đen bưng bít đó. 

Hai người họ thay nhau xuống giếng và dung xô múc hết nước ra. Và khi cuối cùng cũng tìm được trong lớp bùn một hộp sọ mà họ cho là của Sadako, thì đã qua thời điểm mười giờ. Giờ chết của Asakawa đã đến và đi qua, mà anh ta không chết. 

Họ hài lòng rằng đã tìm ra bí mật cuốn băng.

Sau đấy, Asakawa đưa di hài Sadako về đảo Izu Oshima, trong khi Ryuji về nhà mình ở Tokyo để viết một công trình nghiên cứu. 

Vụ việc đã được gác lại. Xương cốt của Sadako Yamamura, người sở hữu sức mạnh ngoại cảm đáng sợ, đã được giải thoát khỏi tận sâu lòng đất. Cô đã được khuây khỏa. Cả Asakawa lẫn Ryuji đều không chút nghi ngờ về chuyện đó.
Cái chết bí ẩn (P/23)

Saturday, June 6, 2015

Cái chết bí ẩn (P/21)



Chiếc máy xem văn bản kêu ro ro không ngớt trong khi chiếc máy in, in ra hết trang này đến trang khác. Ando kéo mạnh từng trang giấy ra khỏi máy in khi nó trườn ra và đọc thật nhanh.


Mỗi trang để cách dòng đơn, nhưng Ando vẫn có thể đọc nhanh hơn tốc độ máy in in ra. Vì muốn có một bản in, nên anh đã quyết định in ra toàn bộ thay vì đọc trên màn hình. Giờ thì anh đâm nản khi mất hai đến ba phút mới in được một trang.

Cuối cùng anh đành mượn chiếc máy của Ueda về nhà. Kiểm tra sơ qua cho thấy toàn bộ phóng sự lên đến gần một trăm trang, nhiều hơn mức hợp lý mà anh có thể in ra ở phòng xét nghiệm. Anh không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải thức khuya ở nhà.

Giờ mới đến cuối trang hai mốt của bản thảo, anh vừa đọc vừa tranh thủ ăn bữa tối mua ở một cửa hàng tạp phẩm trên đường về nhà. Cho đến lúc này, những gì anh đọc đúng y như Yoshino đã kể cho anh tuần trước đó. Nhưng nó khác với những gì Yoghino đã kể anh nghe trong quán cà phê ở chỗ, có thời gian và địa điểm cụ thể. Do đó nó thuyết phục hơn rất nhiều. Lối viết phóng sự - không hoa mỹ - cũng khiến bài viết càng đáng tin cậy hơn.

Torng khi điều tra bốn cái chết đồng thời do đau tim của bốn thanh niên ở Tokyo và tỉnh Kanagawa vào tối mùng 5 tháng Chín, Asakawa đã đi đến ý tưởng cho rằng thủ phạm là một loại virus. Nói theo khoa học, đó là một kết luận hiển nhiên. Vì các ca mổ tử thi đã phát hiện ra một loại virus gần giống như virus đậu mùa, và linh cảm của Asakawa đã đúng. Theo phỏng đoán của Asakawa, do bốn người chết cùng một thời điểm, nên họ chắc phải nhiễm cùng một loại virus ở cùng một nơi. Anh ta nhận ra rằng mấu chốt cho toàn bộ vụ việc là phải tìm ra nơi họ phơi nhiễm với virus, nghĩa là xác định con đường lây truyền.

Asakawa đã thành công trong việc tìm ra thời gian và địa điểm mà bốn người này ở cùng nhau: ngày 29 tháng Tám, đúng một tuần trước khi họ chết, tại Pacific Land, Nam Hakone, trong một căn nhà gỗ cho thuê. Villa Log, Cabin số B-4.
Trang tiếp theo, trang hai hai, bắt đầu với việc Kazuyuki Asakawa tự tìm đến tận ngôi nhà gỗ này. Anh ta bắt tàu tốc hành đến Atami, rồi thuê một chiếc xe đi theo đường Atami-Kannami đến khu nghỉ mát cao nguyên. Trời mưa, bóng đêm hạn chế tầm nhìn, và con đường miền núi rất khủng khiếp. Anh ta đặt thuê nhà B-4 vào buổi trưa, nhưng mãi đến tận quá tám giờ tối mới làm thủ tục nhận phòng. 

Vậy đây là nơi bốn thanh niên đã ở qua đêm: ý nghĩ đó khiến Asakawa giật mình sợ hãi. Đúng một tuần sau khi ở trong ngôi nhà này, họ đã chết. Anh ta biết chính bàn tay ma quái kia cũng sẽ chạm vào mình. Nhưng anh ta không vượt qua được tính tò mò của một nhà báo nên cuối cùng đã lục lọi khắp ngôi nhà.

Từ những gì các thanh niên kia viết trong một cuốn sổ tay để lại trong căn nhà, Asakawa xác định rằng tối hôm đó họ đã xem một cuốn băng video, nên anh ta đã đến phòng quản lý để tìm cuốn băng đó. Anh ta tìm thấy một cuốn băng không có nhãn, không có vỏ, nằm ở đáy tủ. 

Đây liệu có phải là cái mà anh ta đang tìm? Được sự cho phép của người quản lý, anh ta đưa cuốn băng trở lại nhà B-4, rồi, không còn cách nào khác, để biết điều gì có trong cuốn băng, anh ta đã đưa nó vào đầu máy VCR đặt trong phòng khách và xem một mạch từ đầu đến cuối.

Lúc đầu, màn hình tối đen, Asakawa mô tả cảnh mở đầu thế này:

Từ giữa màn hình đen, có một điểm sáng bắt đầu nhấp nháy. Nó lớn dần lên, lắc lư sang trái và sang phải, cuối cùng dừng lại phía bên trái. Rồi nó tỏa ra các nhánh, trở thành những đường sáng hỗn độn, trườn bò như những con sâu...

Ando ngước nhìn lên trang sách. Dựa trên những gì đang đọc, anh có thể hình dung một cách khá rõ ràng hình ảnh có trên màn hình. Khi đọc đoạn mô tả mở đầu của Asakawa, một hình ảnh nhảy vào trong đầu anh như thể anh đã nhìn thấy nó đâu đó trước đây. 

Một con đom đóm bay trên một màn hình đen, lớn dần lên... rồi một điểm sáng lan rộng ra giống như những sợi của chiếc chổi quét sơn. Đó là một cảnh ngắn ngủi, nhưng đúng là cảnh mà anh nhớ là đã xem rồi, và rất gần đây.

Ando mất không nhiều thời gian để nhớ ra. Ấy là khi anh ở trong căn nhà của Mai, cố tìm dấu vết của cô. Anh thấy một cuốn băng nằm trong đầu máy VCR, rồi anh nhấn nút play. Cuốn băng có nhan đề Frank Sinatra, Liza Minnelli, v.v..., ghi trên nhãn bằng chữ viết tay của một người đàn ông. Vài giây đầu tiên của cuốn băng phù hợp với mô tả này một cách hoàn hảo.

Nhưng trong cuốn băng ở nhà Mai, cảnh này chỉ kéo dài vài giây trước khi màn hình đột nhiên trở nên sáng hơn. Trong nỗ lực rõ ràng là nhằm xóa đi những gì có trong cuốn băng, Mai đã ghi lại các chương trình buổi sáng, chương trình phát lại vở kịch mê-lô về một samurai, bất cứ cái gì, cho đến khi cuốn băng chạy hết. 

Ngay lập tức Ando hiểu ra điều này có nghĩa là gì. Bằng cách nào đó, có thể là thông qua Ryuji, Mai đã được cuốn băng gây rắc rối kia và xem nó tại căn phòng của cô. Rồi khi xem xong, cô đã xóa bất cứ thứ gì chứa trong băng. Hẳn cô phải có lý do để xóa. Nhưng cô đã không thể xóa đoạn mở đầu, nên hình ảnh của vài giây đầu tiên vẫn còn lại, ẩn náu. Có phải thế nghĩa là cuốn băng Asakawa tìm thấy ở Villa Log Cabin đã bằng cách nào đấy tự tìm đường đến tay Mai?

Anh cố gắng sắp xếp ý nghĩ. Không, không thể thế được. Cuốn băng Asakawa tìm thấy và cuốn băng Mai có rõ ràng là hai cuốn băng khác nhau. Theo bài phóng sự, cuốn băng ở trong ngôi nhà gỗ không có nhãn. Nhưng cuốn băng trong đầu máy VCR của Mai có nhan đề được viết bằng bút mực dạ đen. Điều đó có nghĩa nó là một bản sao.

Cuốn băng ở ngôi nhà gỗ là bản gốc, và cuốn băng ở nhà Mai là bản sao. Vậy là cuốn băng đã được sao chép, ngụy trang, chuyển đi - một chuỗi thay đổi làm chóng mặt. Trong đầu Ando, cuốn băng, đang nằm tại một điểm đâu đó giữa vô sinh và hữu sinh, bắt đầu giống như một loại virus.

Vậy sự biến mất của Mai có phải là kết quả của việc cô đã xem cuốn băng? Khả năng này khiến anh lo lắng. Từ lúc đó cô không trở về phòng. Cô không đến trường, thậm chí còn không gọi điện cho mẹ. Mặt khác, anh chưa nghe tin gì về việc người ta tìm thấy một phụ nữ trẻ chết vì những nguyên nhân không giải thích được.

Anh để cho trí óc nghĩ lan man một lúc, trong khi cân nhắc mọi tình huống có thể xảy đến với cô. Có lẽ cô đã chết đơn độc ở một nơi không ai biết đến. Ý nghĩ ấy là anh đau nhói - cô chỉ mới hai mươi hai tuổi. Anh đã cảm thấy những xao động đầu tiên vì phải lòng cô, và việc này khiến cho sự việc trở nên khó chịu đựng hơn.

Cuối cùng máy in cũng in xong một trang nữa, với một âm thanh làm Ando thoát ra khỏi dòng suy tưởng. Bất luận thế nào, thì giờ không phải lúc chuốc thêm rắc rối. Hiện tại, tốt hơn là anh nên tìm xem trong cuốn băng đó có gì trước tiên.
Cái chết bí ẩn (P/22)

Friday, June 5, 2015

Cái chết bí ẩn (P/20)



Ando đi cạnh Nemoto trong hành lang mờ tối của trường y. Ando mặc chiếc áo blu không cài cúc, đuôi hất ra phía sau, tay giữ chặt chiếc đĩa trong túi áo jacket. 

Cả Myashita và Nemoto đều không hỏi anh về chiếc đĩa. Ando không có ý giấu giếm gì. Myashita mà hỏi, anh sẽ trả lời thành thật. Nếu họ biết chiếc đĩa có thể chứa chìa khóa của toàn bộ bí ẩn, chắc chắn bây giờ hai người đó đang bám riết anh.

Tất nhiên Ando vẫn chưa nhìn thấy những gì có trong đĩa. Luôn tồn tại khả năng chiếc đĩa chứa cái gì đó hoàn toàn khác. Anh hoàn toàn không biết gì cho đến khi xem được nó trên màn hình. Dù vậy, anh cảm thấy nó bình thường trong tay mình: chiếc đĩa ấm nóng trong túi áo anh. Nó ấm gần với nhiệt độ cơ thể. Khi chạm vào chiếc đĩa, dường như anh biết rằng nó chứa những con chữ sống.

Nemoto mở cửa phòng xét nghiệm khoa Sinh hóa. Ando lấy chiếc đĩa ra khỏi túi áo, chuyển nó sang tay trái, còn tay phải dùng để giữ cho cửa mở.

"Này, Ueda." Nemoto ra hiệu cho người thanh niên gầy còm đang ngồi trong góc phòng.

"Vâng?"

Ueda xoay ghế về phía Nemoto, nhưng không đứng dậy. Nemoto tiến lại gần, mỉm cười, và đặt tay lên vai Ueda. "Máy xem văn bản của cậu có bận dùng gì bây giờ không?"
"Không, không cần lắm."

"Tuyệt. Cậu có phiền nếu bác sĩ Ando đây mượn nó một lúc được không?"

Ueda ngước nhìn Ando và cúi đầu. "Xin chào."

"Xin lỗi về chuyện này. Tôi có một chiếc đĩa cần phải mở, và nó không tương thích với máy của tôi." 

Ando đến cạnh Nemoto, giơ chiếc đĩa lên.

"Anh cứ dùng đi," Ueda nói, lấy chiếc máy xem văn bản nằm ở sàn nhà gần chân anh ta đặt nó lên bàn.

"Cậu có phiền không nếu tôi kiểm tra nó ngay tại đây, chỉ để chắc chắn thôi?"

"Không sao đâu."

Anh mở nắp máy đọc văn bản và bật lên. Ngay sau đó menu chính xuất hiện trên màn hình. 

Trong số các tùy chọn được hiển thị, Ando chọn DOCUMENTS, rồi cho đĩa vào. Màn hình tiếp theo có hai tùy chọn. NEW DOCUMENT và OPEN DOCUMENT. Ando di chuyển con trỏ đến tùy chọn thứ hai và rồi nhấn tiếp. 

Với một tiếng kêu ro ro, máy bắt đầu đọc chiếc đĩa. Cuối cùng, tên của các file lưu trong đĩa xuất hiện trên màn hình.

RING 9 1990/10/21
RING 8 1990/10/20
RING 7 1990/10/19
RING 6 1990/10/17
RING 5 1990/10/15
RING 4 1990/10/12
RING 3 1990/10/07
RING 2 1990/10/04
RING 1 1990/10/02

Ando đọc các tên phai như mê sảng. "Ring, ring, ring, ring..."

Ring!

Cái quái gì thế này? Đúng từ mà anh tìm được khi giải mật mã lòi ra từ thi thể Ryuji.

"Anh có sao không?" Nemoto nói, vẻ lo lắng. Anh ta nhìn vào vẻ mặt đột nhiên sửng sốt của Ando. Ando khó khăn lắm mới gật đầu được.

Không thể nào có sự trùng hợp ngẫu nhiên đến thế. Asakawa đã viết một phóng sự chi tiết về toàn bộ chuỗi sự kiện lạ, lưu nó lại thành chín phần, đặt nhan đề là Ring. Và rồi chính cái nhan đề đó lại lòi ra từ bụng Ryuji.

Giải thích kiểu này thế nào đây? Không thể nào như thế.

Ando rơi vào trạng thái đờ đẫn. Thi thể của Ryuji đã hoàn toàn trống rỗng; anh ta giờ giống như một người bằng thiếc rồi. 

Vậy mà mình đang nói rằng anh ta gửi cho mình một thông điệp từ ổ bụng của anh ta? Rằng anh ta đang cố nói với mình về sự tồn tại của những file này?

Ando mường tượng lại khuôn mặt Ryuji ngay sau ca mổ pháp y. Khuôn mặt vuông chữ điền của anh ta đang mỉm cười. Ando đã nghĩ, ngay trong giây phút đó anh ta đã bắt đầu cười chế nhạo anh, vẫn trần truồng trên bàn mỗ, xương hàm rung lên.

Từ trong sâu thẳm, Ando có thể cảm thấy câu chuyện kỳ dị của Yoshino bắt đầu gây cảm giác có thực. 

Có lẽ nó hoàn toàn là thực. Có lẽ thực sự tồn tại một cuốn băng sẽ giết chết anh bảy ngày sau khi anh xem nó.
Cái chết bí ẩn (P/21)

Sunday, May 31, 2015

Cái chết bí ẩn (P/19)



Ando ngó đầu vào văn phòng khoa Bệnh họ xem Miyashita có ở đó không, nhưng anh chưa kịp nói gì thì Miyashita đã gọi.

"A, đúng là người tôi đang cần gặp. Cậu nghĩ sao về cái này." Miyashita đang cầm một bản in, và dùng tay kia ra hiệu cho Ando. Bên cạnh anh ta là Nemoto, trợ lý phòng xét nghiệm hóa sinh. 

Nemoto và Miyashita có bề ngoài giống nhau đến mức bất cứ ai gặp họ ở gần nhau cũng không nén nổi bật cười. Từ chiều cao 1,62m, cân nặng chừng hơn 77kg - đến chiều dài chân, khổ người, khuôn mặt, thậm chí kiểu ăn mặc và giọng nói, họ giống nhau như hai hạt đậu trong cùng một quả đậu.

"Này, tôi không biết là cậu lại có người em sinh đôi đấy." Ando luôn thốt ra câu nói đùa ấy mỗi khi anh gặp họ.

"Bác sĩ Ando, anh đừng có đánh đồng tôi với ông này," Nemoto nhăn mặt nói. Nhưng không có gì là ghê gớm khi được nhận xét giống người đồng nghiệp lớn hơn anh ta hai tuổi. Dù gì, Miyashita cũng được yêu mến vì cả tính cách lẫn học vấn, lại còn được trao danh hiệu ứng cử viên tương lai cho hàm giáo sư.

"Mọi người bảo chúng ta giống nhau Nemoto ạ. Tôi cho cậu biết, chuyện này bắt đầu giống như cái nhọt ở mông vậy. Tại sao cậu không ăn kiêng đi nhỉ?" Miyashita huých vào bụng người đồng nghiệp trẻ.

"À, nếu tôi mà ăn kiêng, anh cũng phải ăn kiêng."
"Thế chúng ta lại quay về nơi bắt đầu à?"

Rồi Miyashita đưa cho Ando bản in mà anh ta đang cầm, như thể để chấm dứt tiết mục hài cũ mèm đó.

Ando giở bản in vừa nhận được ra. Nhìn qua anh cũng biết ngay nội dung là gì. Nó hiện kết quả chạy một đoạn ADN qua máy giải mã.

Tất cả mọi sinh vật sống trên trái đất đều có một hoặc nhiều tế bào chứa ADN (hoặc trong một số trường hợp là ARN). 

Nhân của những tế bào này chứa các hợp chất phân tử gọi là axit nuclêic. Có hai loại axit nuclêic: ADN (axit deoxyribonucleic) và ARN (axit ribonucleic). 

Chúng đóng các vai trò khác nhau. ADN là hợp chất có thông tin di truyền được chứa trong các nhiễm sắc thể: nó có dạng hai chuỗi xoắn vào nhau theo đường xoắn ốc, một cấu trúc gọi là chuỗi xoắn kép. 

Tổng hợp thông tin di truyền của một hình thái sống được ghi lại trong chuỗi xoắn kéo đó. Thông tin di truyền này giống như một bản thiết kế để xây những protein chuyên biệt; mỗi gen là một bản thiết kế. Nói cách khác, gen và ADN không phải là một. Mỗi gen là một đơn vị thông tin.

Vậy chính xác là cái gì được ghi trong bản thiết kế này? Các chữ cái tạo nên dãy ký tự là bốn hợp chất hóa học gọi là các bazơ: adenin (A), guanine (G), cytosin (C) và thymin (T), hoặc đối với ARN là uracil (C). Các bazơ này kết hợp theo từng nhóm bazơ gọi là codon, chuyển hóa thành các axit amin. Ví dụ, codon AAC tạo thành asparagin, codon GCA tạo thành alamin, v.v...

Có khoảng hai mươi loại axit amin, và protein là tổng hợp của hàng trăm phân tử axit amin này. Điều đó có nghĩa cấu tạo của một protein phải chứa một dãy các bazơ có số lượng bằng với số lượng của các phân tử amin nhân ba.

Do đó, cấu tạo của cái gọi là gen, về cơ bản có thể xem là một dãy dài gồm những ký tự, như thế này: 
TCTCTATACCAGTTGGAAAATTAT... Khi được dịch ra, nó nghĩa là một loạt các axit amin gồm: 

TCT (serin, hay Ser), CTA (leucin, hay Leu), TAC (tyrosin, Tyr), CAG (glutamine, Gln), TTG (leucin, Leu), GAA (axit glutamic, Glu), AAT (asparagin, Asn), TAT (tyrosin, Tyr) v.v... và v.v...

Ando nhìn lại các mã bazơ hiện lên trên bản in, bốn ký tự A, T, G, và C xếp thành dãy có vẻ ngẫu nhiên trên trang giấy. Có những đoạn ba dòng dược đánh dấu đề làm nổi bật lên so với phần còn lại.

"Cái gì thế này?"

Miyashita nháy mắt với Nemoto, như thế muốn nói, cậu nói đi.

"Đây là phân tích một đoạn AND lấy ra từ virus tìm thấy trong máu của Ryuji Takayama."

"Hiểu rồi... vậy đây là cái gì?"

"Chúng tôi phát hiện một chuỗi bazơ khá lạ, điều này chúng tôi chỉ thấy trong virus của Takayama."
"Và đó là cái được đánh dấu ở đây?"

"Đúng thế."

Ando nhìn kỹ hơn vào các dãy ký tự được đánh dấu đầu tiên.

ATGGAAGAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA

Anh nhìn vào đoạn đánh dấu thứ hai, và so sánh với đoạn thứ nhất. Anh nhận ra chúng giống hệt nhau. Trong một nhóm chưa đến một nghìn bazơ, chính chuỗi này lặp lại hai lần.

.....................................................................................
.....................................................................................
480
..........................................................GTTTAAAGCA
490 500 510
TTTGAGGGGGATTCAATGAATATTTATGAC
520 530 540
GATTCCGCAGTATTGGACGCTATCATGGAA
550 560 570
GAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAAC
580 590 600
AACAA TTTGCAAAAGCCTCTCGCTATTTTGG
610 620 630
TTTTTATCGTCTGGTAAACGAGGGTTTATGA
640 650 660
TAGTTTGCTCTTACTATGCCTCGTAATTCCTT
670 680 690
TTGGCGTTATGTATCTGCATTAGTTGAATGTG
700 710 720
GGTATTCCTAAATCTCAACTGATGAATCTTTT
730 740 750 760
TTTCTACCTGTAATAATGTTGTTCCGTTAGTT
770 780 790
CGATTAACGTAGATTTTTCTTCCCAACGTCCT
800 810 820
GACTGGGATTTCGACACAAATGGAAGAAGAA
830 840 850
TATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA CG
860 870 880
CTTGGTATAATCGCTGGGGGTCAAAGATGAG
890 900
TGTTTTTAGTATATT.............................................

Ở trên: giữa 535 và 576, rồi lặp lại giữa 815 và 856, có thể nhìn lấy sự lặp lại 42 bazơ ATGGAAGAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA.

BẲNG DIỄN GIẲI CÁC ADN AXIT AMIN

Các bộ ba bazơ (codon) được phiên dịch thành các axit amin theo nguyên tắc nêu trong bảng trên. Ví dụ, TCT là Serin (Ser), AAT là asparagin (Asn), GGA là axit glutamic (Glu). "Stop" để chỉ kết thúc một gen; mã khởi đầu là ATG.

Dưới đây là tên viết tắt và tên đầy đủ của hai mươi axitamin:

Phe phenylalanine His histidin
Leu leucin Gln glutamin
Ile isoleucin Asn asparagin
Met methionin Lys lysin
Val valin Asp axit asparatic
Ser serin Glu axit glutamic
Pro prolin Cys cystein
Thr threonin Trp tryptophan
Ala alanin Arg arginin
Tyr tyrosin Gly glycin
Ando rời mắt khỏi bản in, nhìn sang Nemoto.

"Cho dù có cắt nó ra ở đâu, thì chúng ta luôn thấy các chuỗi này."

"Trong chuỗi này có bao nhiêu?"

"Ý anh là bao nhiêu bazơ?"

"Ừ."

"Bốn hai."

"Bốn hai. Vậy là mườn bốn codon, đúng không? Không nhiều lắm."

"Chúng tôi nghĩ nó có ý nghĩa gì đó," Nemoto lắc đầu nói. "Nhưng, bác sĩ Ando này, điều kỳ lạ là..."

Miyashita xen vào. "Sự lặp lại vô nghĩa này chỉ thấy trong virus được lấy từ mẫu máu của Ryuji, còn những nạn nhân khác thì không có." Anh ta giơ hai tay làm điệu bộ bối rối.

Nói cách khác ... Ando cố tìm ra sự so sánh tương đương. Giả sử, có ba người, trong đó có một người là Ryuji, có các bản kịch Vua Lear của Shakespeare. 

Giả sử tiếp rằng bản của Ryuji, và chỉ riêng bản của anh ta thôi, có một chuỗi vô nghĩa các chữ cái được xen vào giữa các dòng. 

Chỉ có bốn hai bazơ, và chúng được kết hợp theo từng bộ ba bazơ, mỗi bộ tương ứng với một axit amin.Nếu gán cho mỗi bộ này một ký tự, ta sẽ có một chuỗi mười bốn ký tự. Và mười bốn ký tự trùng lặp này xuất hiện trên từng trang của vở kịch, được xen vào một cách ngẫu nhiên. 

Nếu từ đầu ta biết đó là vở kịch Vua Lear, thì tất nhiên có thể quay lại và tìm thấy những phần vô nghĩa đã được thêm vào đó rồi đánh dấu chúng.

"Thế cậu nghĩ sao?" Myashita có vẻ thực sự quan tâm đến ý kiến của Ando. Là một nhà khoa học chân chính, anh ta luôn rất phấn khích khi đối mặt với những điều không thể giải thích được.

"Tôi nghĩ sao à? Tôi cần phải tìm hiểu thêm trước khi có thể nói được điều gì."

Ba người đều im lặng, người này nhìn người kia. Ando thấy lung túng, tay vẫn cầm bản in.

Có điều gì nảy ra trong ý thức của anh. Để xác định đó là gì, anh cần thời gian ngẫm nghĩ và tìm hiểu chuỗi bazơ vô nghĩa đó. Anh linh cảm rõ ràng rằng có gì đó ở đây. Nhưng vấn đề là gì? Và nếu chuỗi bazơ vô nghĩa này thực sự được chèn vào, thì nó xảy ra lúc nào? 

Có phải virus xâm nhập vào cơ thể Ryuji là một loại virus khác? Hay nó đã đột biến trong cơ thể Ryuji, và dãy gồm mười bốn codon xuất hiện nhiều lần là kết quả của sự đột biến đó? Điều đó có thể xảy ra không? Và nếu có, nó nghĩa là gì?

Sự yên lặng đè nặng lên ba người. Không chút suy đoán nào vào lúc này tiết lộ cho họ biết làm sao giải thích được những phát hiện đó.

Myashita là người phá vỡ sự im lặng. "Nhân tiện, cậu đến đây có việc gì à?"

Ando bị phát hiện này hấp dẫn quá đến mức quên cả mục đích ban đầu của cuộc viếng thăm. 

"Đúng rồi, tôi quên mất." Anh mở cặp, lấy sổ ghi chép ra, đưa cho Myashita và Nemoto một mẩu giấy.

"Không biết có ai ở đây có máy xử lý văn bản model này không?"

Myashita và Nemoto nhìn tên model máy viết trên mẫu giấy. Đó là loại máy khá thông dụng.

"Có nhất thiết chính xác model này không?"

"Chỉ cần cùng một hãng sản xuất là được, model có lẽ không quan trọng. Đây chẳng qua là chuyện có tương thích với một chiếc đĩa mềm không thôi."

"Tương thích?"

"Đúng." Ando lấy trong cặp ra một chiếc đĩa mềm.

"Tôi cần in ra một bản và copy một bản những file trong đĩa này."

"Tôi cho là nó không được lưu trong MS-DOS, đúng không?"

"Tôi không nghĩ thế."

Nemoto vỗ tay, như thể vừa nhớ ra điều gì đó.

"A, một người trong khoa tôi, chắc là Ueda, có chiếc máy đúng model này."

"Anh nghĩ liệu anh ta có cho tôi mượn nó không?" Ando ngần ngại. Anh chưa bao giờ gặp người tên Ueda này cả.

"Tôi không nghĩ có khó khăn gì, anh ta là lính mới." 

Nemoto nói với vẻ tự tin của một người kỳ cựu trong khoa, biết rõ rằng lính mới sẽ làm bất cứ điều gì mình đề nghị.

"Cảm ơn."

"Không sao. Tại sao chúng ta không ta không đến đó ngay bây giờ? Tôi nghĩ anh ta đang ở đó."

Đây đúng là tiếng nhạc rót vào tai Ando. Anh nóng lòng muốn in nội dung có trong chiếc đĩa này, cho dù đó là cái gì.

"Tuyệt lắm. Đi thôi." Ando bỏ chiếc đĩa vào túi áo jacket. Rồi vẫy tay chào Myashita, anh đi theo Nemoto đến khoa Bệnh học.
Cái chết bí ẩn (P/20)

Friday, May 29, 2015

Cái chết bí ẩn (P/18)

 

Hôm sau là thứ bảy. Sau khi kết thúc hai ca mổ, Ando kéo anh chàng cảnh sát trẻ có mặt ở đó làm nhân chứng ra bên cạnh, và hỏi anh ta chuyện gì xảy ra với những chiếc xe gặp tai nạn. 


Nếu một chiếc xe bị hư hỏng vì tai nạn gần lối ra Oi trên đường cao tốc Metropolitan Bayside, thì nó được xử lý như thế nào?

"À, trước tiên chúng tôi khám xét nó." Anh ta là một thanh niên đeo kính, trông thật thà. Ando đã gặp anh ta vài lần trước đó, nhưng nói chuyện thì đây là lần đầu tiên.

"Rồi sau đó?"

"Chúng tôi trả nó về cho chủ."

"Nếu là chiếc xe được cho thuê?"

"Tất nhiên là chúng tôi sẽ trả nó về hãng cho thuê xe."
"Thế này. Có ba người ở trong chiếc xe, đôi vợ chồng trẻ và đứa con gái. Họ, à, sống trong một chung cư tại Shinagawa, chỉ có ba người họ thôi. 

Người vợ và đứa bé đã chết lúc tai nạn, còn người chồng đang trong tình trạng nguy kịch. Vậy thì, chuyện gì xảy ra với những đồ đạc có trong xe?"

"Người ta sẽ tạm giữ chúng ở kho của phòng quản lý giao thông khu vực đó."

"Nếu vụ tai nạn xảy ra ở lối ra đường hầm phía Oi trên đường cao tốc Metropolitan, thì thuộc khu vực nào?"

"Lối ra à?"

"Đúng, ở đó đấy. Gần lối ra."

"Không, ý tôi là vẫn trên đường cao tốc hay đã ra khỏi đó rồi? Chúng thuộc các khu vực quản lý khác nhau."

Ando nhớ lại những tấm ảnh hiện trường vụ tai nạn. Anh chắc chắn là nó xảy ra trên đường cao tốc. Anh nhớ mang máng đã nhìn thấy dòng chữ "đường vào Hầm Tokyo Harbor" được viết trên một hồ sơ ở đâu đó.

"Chắc chắn là trên đường cao tốc."

"Vậy thì nó thuộc Đội Tuần tra Giao thông Metropolitan Expressway."

Ando chưa bao giờ nghe đến cái tên này trước đây. "Trụ sở của nó ở đâu?"

"Shintomi."

"Hiểu rồi. Vậy là những đồ vật sẽ được lưu kho tạm thời ở đấy. Điều gì xảy ra sau đó?"

"Người ta sẽ liên lạc với gia đình gọi người đến nhận lại đồ."

"Giả sử, như tôi đã nói, mọi người trong gia đình đã chết."

"Cả anh chị em và bố mẹ của người đàn ông trong viện?"

Ando không biết gì về bố mẹ hay anh chị em của Asakawa cả. Cứ xét theo tuổi, nhiều khả năng là bố mẹ anh ta còn sống. 

Dẫn đến khả năng, họ đang giữ tất cả những món đồ có trong chiếc xe. Asakawa và Ryuji là bạn từ hồi trung học. Vì bố mẹ Ryuji sống ở Sagami Ohno, có thể bố mẹ của Asakawa cũng sống trong vùng đó. Trong trường hợp nào đi nữa, điều đầu tiên Ando nên làm là tìm và liên lạc với họ.

"Tôi hiểu rồi. Cảm ơn anh rất nhiều."

Ando buông tha anh chàng cảnh sát và ngay lập tức bắt đầu tìm bố mẹ Asakawa.

Anh đã xác định được cả hai người vẫn còn sống và hiện đang cư ngụ ở khu Kurihana, thành phố Zama, không xa Sagami Ohno. 

Anh gọi điện hỏi xem chuyện gì đã xảy ra với những đồ đạc trong chiếc xe của con trai họ. 

Bố Asakawa bảo anh, bằng một giọng căng thẳng, hãy gọi điện cho người con trai cả của ông, hiện sống ở Kanda, Tokyo. 

Thì ra Kazuyuki là con trai út trong ba anh em; người anh cả làm việc cho ban sách nghệ thuật của Shotoku, một nhà xuất bản lớn, trong khi người anh thứ hai là giáo viên phổ thông dạy tiếng Nhật. 

Bố Asakawa nói rằng cảnh sát đã gọi điện cho ông đề nghị đến nhận một số đồ đang được giữ ở sở cảnh sát, nhưng ông không đến mà bảo họ liên lạc với anh con trai sống ở Kanda. 

Kanda cách không xa Shintomi, nơi có trụ sở của Đội Tuần tra Giao thông Metropolitan Expressway, mà ở đó tuổi ngoài bảy mươi ông cụ Asakawa không thích mang về nhà chiếc máy VCR về nhà. Do đó ông dàn xếp với cảnh sát để con trai mình đến lấy đồ.

Tiếp theo Ando liên lạc với Junichiro Asakawa, hiện đang sống cùng vợ trong một khu tập thể ở Kanda. 

Khi cuối cùng cũng liên lạc được với anh ta qua điện thoại vào tối hôm đó, Ando đi ngay vào vấn đề, kể cho anh ta tình hình, hay ít nhất cũng gần như toàn bộ. 

Anh sợ rằng nếu khiến Junichiro sinh nghi bằng cách nói dối hoặc vụng về che giấu, anh sẽ không bao giờ có được chiếc đĩa. Mặt khác, anh không thể đơn giản lặp lại câu chuyện Yoshino đã kể. 

Chính Ando cũng không hẳn tin cả câu chuyện, và Junichiro chắc chắn sẽ nghĩ anh điên. 

Do đó, anh tóm lược lại những điều cho anh là phù hợp, kết thúc bằng cách nhấn mạng rằng có khả năng Asakawa đã để lại một tài liệu có thể soi sáng cho câu chuyện. 

Anh nói mình thực sự muốn có được tài liệu đó và hỏi liệu anh có được phép sao lại một bản, anh thỉnh cầu và cảm ơn.

"Tôi không chắc là có cái gì đó giống như thế trong những thứ mà tôi nhận được." Junichiro dường như không hoàn toàn bị thuyết phục. Nghe giọng có thể thấy rằng anh ta chưa xem kỹ những món đồ đó.

"Có chiếc máy xem văn bản không?"

"Có. Nhưng tôi nghĩ nó hỏng rồi."

"Trong máy có chiếc đĩa mềm nào không?"

"Nói thật là tôi chưa xem. Tôi còn chưa lấy nó ra khỏi hộp các tông mà họ đưa cho tôi."

"Kèm theo hộp có một đầu máy video không?"

"Có, nhưng tôi vứt đi rồi. Chuyện đó có gì sai trái không?"

Hơi thở Ando bị chặn lại ở họng. "Anh vứt nó rồi?"

"Tôi có thể hiểu tại sao em tôi mang theo chiếc máy xem văn bản, vì công việc, nhưng tại sao nó lại mang theo một đầu máy VCR?"

"Tôi xin lỗi, nhưng có phải anh nói đã vứt đầu video đi rồi không?"

"Đúng. Nó hỏng hẳn rồi mà. Hôm trước tôi gọi hàng đồng nát đến lấy chiếc TV, rồi tôi bảo họ mang đầu VCR đi luôn. Nó không sửa chữa được nữa. Dù sao, tôi không nghĩ Kazuyuki sẽ phiền lòng."

Ando hầu như đã sắp đạt đến hai mục tiêu của mình, vậy mà giờ đây, vào phút cuối, một trong số chúng đã vượt khỏi anh. 

Có nhiều khả năng cuốn băng video mấu chốt của toàn bộ sự việc nằm trong chiếc đầu VCR, và anh đã hy vọng mình may mắn có được cả cuốn băng lẫn chiếc đĩa. Anh tự trách mình không liên lạc với Junichiro sớm hơn.

"Ngoài chiếc VCR, liệu có một cuốn băng nào đó không?"

"Tôi không biết. Tất cả những gì tôi thấy là một chiếc máy xem văn bản, đầu máy VCR, hai túi màu đen đựng đồ có lẽ là của Shizu và Yoko. Tôi chưa mở chúng."

Ando muốn chắc chắn rằng Junichiro hiểu là anh muốn xem chúng càng sớm càng tốt. "Anh có phiền nếu tôi ghé đến chỗ anh không?"

"Không sao," Junichiro đồng ý, nhanh đến kinh ngạc.

"Liệu ngày mai có được không?" Chủ nhật.

"Để tôi xem đã. Tôi sẽ đi chơi golf với một nhà văn, nhưng sẽ về trước bảy giờ."

"Vậy thì, bảy giờ nhé." Ando ghi lại thời gian, gạch chân bên dưới nhiều lần.

Ngay sau bảy giờ tối Chủ nhật, Ando đến nhà của Junichiro ở khu Sarugaku thuộc Kanda. Khu vực này không có vẻ là một khu dân cư lắm. 

Bao quanh tòa nhà của Junichiro là những tòa nhà văn phòng. Vào tối chủ nhật, nơi này vắng vẻ một cách kỳ quái.

Ando nhấn chuông và nghe một giọng đàn ông sau cửa hỏi, "Ai đó?"

"Tôi là Ando. Tôi đã gọi điện hôm qua."

Cánh cửa mở ngay, và Ando được dẫn vào trong. Junichiro mặc một bộ đồ nỉ, tóc vẫn còn ướt; hẳn anh ta mới đi chơi golf về và tắm xong. 

Không hiểu sao khi nghe giọng anh ta qua điện thoại, Ando lại tưởng tượng đó là một người cao, dễ lo lắng, nhưng khi gặp trực tiếp mới thấy Junichiro có dáng chắc nịch và vẻ mặt thân thiện. 

Trong lúc Junichiro dẫn lối vào căn nhà, Ando ngẫm nghĩ, trong ba anh em, anh cả là một biên tập viên, người thứ hai là giáo viên tiếng Nhật, và người thứ ba là phóng viên một tờ báo lớn. Tất cả họ đều lựa chọn lĩnh vực gắn với ngôn ngữ, viết lách hàng ngày. Rất có khả năng ông anh cả đã có ảnh hưởng đến việc này. 

 Chính Ando cũng đã chịu ảnh hưởng anh trai mình khi lựa chọn vào nghành y, anh trai anh là giáo viên dạy môn sinh vật ở trường trung học.

Junichiro đến chỗ tủ đựng đồ trong hành lang và lấy ra một hộp các tông. Túi đồ và máy xem văn bản để trong đó.

"Anh muốn xem không?" Junichiro ngồi khoanh chân trên sàn nhà và đẩy chiếc hộp về phía Ando.
"Cảm ơn."

Trước tiên Ando lôi ra chiếc máy xem văn bản, ghi lại hãng sản xuất và model. Vỏ máy dường như bị hỏng khá nặng trong vụ đâm xe; mặt trên không mở được, và khi nhấn nút nguồn không thấy có tín hiệu gì. 

Ando dựng thẳng nó lên đầu gối, nhận thấy nút eject ở bên hông máy. Nó nằm phía trên một cái khe, nhìn vào bên trong anh thấy chiếc đĩa mềm màu xanh. 

Anh hầu như hét lên vì vui sướng khi nhấn nút eject. Chiếc máy kêu "tách" một tiếng mà Ando nghe như thế "trúng rồi"! 

Anh lấy đĩa ra và giữ nó một lúc trong lòng bàn tay, xem xét mặt trước và sau đĩa. Đĩa chưa gắn nhãn nên không nhìn thấy nhan đề nhưng Ando biết ngay đó chính là thứ anh đang tìm. Khi bật ra khỏi khe máy, nó phát lên âm thanh nghe như là "trúng rồi."

Anh muốn đọc chiếc đĩa đó càng sớm càng tốt, nên anh nói với Junichiro, "Tôi rất muốn xem trong này có gì ngay ở đây."

"Tôi e là nó không tương thích với máy của tôi."

Junichiro không thể dùng máy xử lý văn bản để mở file trong đĩa mềm.

"Vậy thì, anh có phiền không nếu tôi mượn chiếc đĩa này trong hai ba ngày?"

"Với tôi thì không sao, nhưng ..."

"Tôi sẽ trả lại cho anh ngay khi đã xong việc."

"Có gì trong đĩa kia thế?" Sự phấn khích của Ando rõ ràng đã tự lây truyền. Junichiro đột nhiên có vẻ tò mò.

Ando lắc đầu. "Tôi không biết chính xác là gì."

"À, tôi muốn có lại nó càng sớm càng tốt." Giờ thì dường như Junichiro cũng muốn đọc nó. Có lẽ bản năng của một người làm biên tập đã bị kích thích.

Ando để chiếc đĩa vào túi áo jacket, và cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng cùng lúc một khao khát mới lại xâm chiếm anh. Những chiếc túi đồ kia ... Anh biết hy vọng cũng chỉ vô ích, nhưng anh không thể loại trừ khả năng cuốn băng nằm trong đó.

"Nếu tôi muốn xem có gì trong những túi kia thì liệu có quá đáng không?" Anh cố lựa chọn từ ngữ cẩn thận, thoáng bối rối khi nghĩ đến việc lục lọi đồ của phụ nữ.

"Tôi không nghĩ là có gì trong đó," Junichiro cười, nhưng vẫn đưa những chiếc túi. Khi nhìn vào trong, hy vọng yếu ớt của Ando về việc tìm thấy cuốn băng cuối cùng vỡ vụn. Trong túi gần như toàn quần áo và tã lót. Không có thứ anh tìm kiếm. Đúng như anh lo sợ, cuốn băng nằm trong đầu máy VCR khi nó bị vứt đi.

Nhưng anh đã có trong tay chiếc đĩa mềm, và anh phải tính đó là một thành công. Anh không thể nào thảnh thơi khi ra về. Anh sẽ tìm xem ở nơi làm việc có ai có máy đọc được chiếc đĩa không. Anh nóng lòng muốn xem có gì trong đó.
Cái chết bí ẩn (P/19)
 
Copyright © 2013 Kinh dị (Pmanth) | Powered by Blogger