Wednesday, January 29, 2014

Hận tình (kỳ 3)


 Janice Ott, nạn nhân
 Nạn nhân, Janice Ott


  Chuyện Cấm Cười / Pmanth - Theo Trutv


Giết người liên tục

Trong suốt mùa xuân và mùa hè, nhiều nữ sinh viên, không hiểu vì sao đột ngột biến mất. Có rất nhiều điểm tương đồng trong các sự việc. Ví dụ như tất cả nạn nhân đều là những cô gái độc thân, xinh đẹp, da trắng, cao, gầy, có mái tóc dài, mặc áo ngủ, biến mất vào buổi tối.

Ngoài ra, chung quanh thời điểm các cô gái bị mất tích, cảnh sát cũng đã phỏng vấn các sinh viên, nhiều người khai báo đã nhìn thấy một người đàn ông rất kỳ lạ đeo băng bột ở chân hoặc cánh tay, hắn có vẻ đang vất vả vì phải vật lộn với đống sách vở mà hắn đang cầm, vì vậy, hắn đã yêu cầu một phụ nữ trẻ đang ở gần đó phụ giúp.

Một nhân chứng khác cũng cho biết đã nhìn thấy một người lạ trong khuôn vìên của bãi đậu xe, hắn cũng có mang cái băng bột và muốn nhờ phụ giúp cho chiếc xe VW của hắn, chiếc xe hình như đang gặp trở ngại, trong việc đề cho máy chạy.

Điểm đáng chú ý là nơi người đàn ông này xuất hiện, thường cùng khu vực nơi mà hai trong số các cô gái, đã biến mất một cách bí ẩn.



Denise Naslund, nạn nhân
Denise Naslund, nạn nhân
 
Cuối cùng, vào tháng 8, năm 1974 tại công viên của hồ Washington Sammamish, một số mảnh tử thi của các nạn nhân xấu số, được tìm thấy. Những sợi tóc, xương đùi, một vài hộp sọ và xương hàm. 

Danh tánh của các nạn nhân được xác định là Janice Ott và Denise Naslund, hai cô đã biến mất vào ngày 14 Tháng Bảy.
 
Những người cuối cùng đã nhìn thấy Ott, là một cặp vợ chồng đi dã ngoại gần đó, họ cho biết, đã nhìn thấy một người đàn ông khá đẹp trai, đến gần người phụ nữ, và muốn nhờ cô giúp đỡ vì tay của ông ta bị băng bột nên hơi khó khăn để có thể di chuyển chiếc tàu của mình, cô gái đã đồng ý phụ giúp. Họ cũng nghe được tên của hắn là Ted. Đó là lần cuối cùng Janice Ott 23 tuổi được nhìn thấy còn sống.

 
Mellissa Smith, nạn nhân
Melissa Smith, nạn nhân

Nạn nhân kế tiếp

Denise Naslund đã cùng với bạn trai và bạn bè của cô vui chơi cả buổi trưa ở công viên, khi cô đi về phía nhà vệ sinh trong công viên, và đã không bao giờ trở lại nữa.  

Chiều hôm đó, khu vực nơi cô biến mất, cũng xuất hiện một người đàn ông trẻ, có cánh tay bị băng bột đã nhờ cô giúp đỡ di chuyển chiếc tàu của ông ta. Những người nhìn thấy, họ cho biết họ đã không thể giúp người đàn ông trẻ hấp dẫn đó. Tuy nhiên, Denise Naslund là loại người sẵn sàng giúp đỡ một ai đó, nếu họ cần, đặc biệt là với một người có chân bị băng bột, hành động do lòng tốt của cô, đã phải trả giá quá đắt, bằng sinh mạng của chính mình.  

Denise Naslund không phải là người phụ nữ cuối cùng biến mất và được tìm thấy đã chết.
 
Tiếp tục di chuyển để tìm mục tiêu mới.

 
Laura Aime, nạn nhân
Laura Aime, nạn nhân

Tại Midvale, tiểu bang Utah, cảnh sát trưởng Louis Smith có một cô con gái 17 tuổi, ông đã thường cảnh báo với con gái, về sự nguy hiểm của thế giới. Ông đã nhìn thấy quá nhiều những sự việc ghê rợn và rất lo lắng cho sự an toàn của con gái. Tuy nhiên, nỗi sợ hãi tồi tệ đó, đã trở thành hiện thực vào ngày 18 tháng 10 năm 1974, con gái ông, Melissa đột nhiên biến mất. Và cô đã được tìm thấy, 9 ngày sau đó, được xác định đã chết vì bị bóp cổ, bị hãm hiếp một cách dã man qua ngã hậu môn.
 
Mười ba ngày, sau lễ Halloween, Laura Aime 17 tuổi cũng đã biến mất. Xác của cô được tìm thấy ở dưới sông sau dãy núi Wasatch, vào đúng ngày lễ Tạ Ơn. Aime chết vì đã bị một xà beng đánh vào đầu, cũng bị hãm hiếp qua ngã hậu môn. Người ta cho rằng cô đã bị giết chết ở một nơi khác, không phải ở hiện trường, nơi tìm thấy thi thể, vì không có dấu vết của máu ở nơi này. 

Những điểm tương đồng
 

Điểm tương đồng trong các vụ giết người ở Tiểu Bang Washington đã làm cho cảnh sát tại Utah chú ý, họ điên cuồng tìm kiếm người đàn ông với những tội ác ghê rợn. Các chi tiết của mỗi vụ giết người, cũng như các chứng cớ đã ngày càng gia tăng.  

Cảnh sát Utah đã tham khảo ý kiến ​​với các Cục điều tra ở Washington. Và mọi người đều đồng ý rằng, tên sát thủ, có thể là cùng một người. Những nhân chứng cũng đã nhìn thấy người đàn ông lạ với cánh tay bị băng bột, xuất hiện gần những khu vực nơi có nhiều phụ nữ đã biến mất, họ đã đưa ra một kết luận, kẻ giết người, đã tự nhận là "Ted". (xin đón đọc kỳ 4)
...............................................

Hận tình (kỳ 1)

Hận tình biến thành sát thủ giết người hàng loạt (Kỳ 1)

0


 Ted Bundy

C
Chuyện Cấm Cười / Pmanth - Theo Trutv

Ted Bundy bắt đầu giết người

Những người bạn ở chung với Joni Lenz cảm thấy lo lắng khi không thấy cô cả buổi sáng ngày 4 tháng 1 năm 1974. Và đến chiều ngày hôm ấy, mọi người cũng không thấy cô xuất hiện, họ đã tìm đến phòng ngủ của cô, để xem cô có ổn không?

Một cảnh tượng kinh hoàng hiện ra trước mắt họ.

Joni 18 tuổi đã bị đánh đập dã man, một thanh giường bị tách ra khỏi chiếc giường và đâm vào âm đạo cô gái trẻ tội nghiệp.

Joni được đưa đến bệnh viện trong tình trạng hôn mê. Tuy nhiên, cô ấy đã sống sót, sau biến cố kinh hoàng đó, nhưng những thương tổn về thể xác cũng như tâm hồn của suốt cuộc đời còn lại, thì thật là quá to lớn không có gì có thể bù đắp được.

Joni là một trong số ít các nạn nhân đã sống sót sau cuộc tấn công của Ted Bundy, tên giết người điên dại, đã gieo rắc kinh hoàng trong những năm 1974 - 1978. Có ít nhất hơn 35 nạn nhân đã bị hắn giết hại.

Những năm tháng đầu đời của Ted Bundy

Ted với tên Theodore Robert Cowell sinh ngày 24 tháng 11 năm 1946, mẹ là Louise Cowell, một phụ nữ chưa từng kết hôn, cha của Ted là một cựu chiến binh thuộc binh chủng không quân, đã không hề biết đến sự ra đời của Ted.

Một thời gian ngắn sau khi sinh ra Ted, hai mẹ con đã chuyển về ở chung với ông bà ngoại tại Philadephia. Thuở bé, Ted đã được dạy cho rằng, ông bà ngoại là "cha mẹ" và mẹ là "chị gái". Màn kịch này được tạo ra để tránh sự chỉ trích gay gắt của xã hội thời bấy giờ đối với "người mẹ đơn thân".

Lúc 4 tuổi, Ted và mẹ di chuyển đến Tacoma, Washington. Một năm sau đó, Louise mẹ của Ted đã yêu một đầu bếp tên là Johnnie Culpepper Bundy. Vào tháng 5, 1951, hai người đã kết hôn và Ted được theo họ của bố dượng kể từ đó.

Trong những năm sau đó, gia đình Bundy có thêm 4 anh chị em khác, Ted đã phải dành nhiều thời gian sau giờ học để trông chừng những đứa trẻ đó. Cha dượng của Ted cũng cố gắng tạo ra sự thân thiết giữa ông và Ted, bằng cách luôn cho Ted được cùng đi chơi hoặc cắm trại chung với những đứa con của ông. Tuy nhiên, mọi nổ lực của ông dường như đã không thành công, còn Ted thì lúc nào cũng cố tình tránh né và không muốn thân mật với cha dượng. Nó ngày càng trở nên khó chịu khi phải ở cạnh cha dượng, và hình như Ted chỉ luôn muốn ở một mình.

Đó cũng là nguyên nhân, khiến cho sau này Ted đã khó hòa mình và có thể thoải mái với những người chung quanh.

Lúc còn nhỏ, Ted là một đứa trẻ rất nhút nhát, đa nghi và không bao giờ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống. Ted thường bị các bạn cùng trường bắt nạt, trêu chọc, vì thế nó càng căm ghét những đứa trẻ khác. Nó dường như luôn bị ấm ảnh bởi một cái gì đó, một nỗi sợ hãi, sự nghi ngờ....

Trong những năm học trung học, Ted dường như vui vẻ hơn, hắn cũng bắt đầu thích giao du với nhiều bạn bè, Ted cũng trở nên nổi tiếng với vẻ điển trai và đặc biệt ăn mặc rất "lịch sự". Ted rất thích chơi những trò chơi hoặt động như trượt tuyết, và đặc biệt rất quan tâm về chính tri.

Sau trung học, Ted theo học tại Đại học Puget Sound và Đại học Washington. Ngoài giờ học Ted cũng làm thêm vài việc lặt vặt khác, như phụ giúp ở các quán ăn, hay bán hàng cho các cửa hiệu. Tuy nhiên, hắn không làm việc ở đâu lâu. Và những người chủ thường coi Ted như một kẻ không đáng tin cậy.

Mặc dù những công việc làm thêm ngoài giờ học không được thích hợp lắm với Ted. Tuy nhiên, hắn lại rất chăm chỉ và tập trung vào các việc nghiên cứu ở trường. Mọi việc bắt đầu thay đổi trong mùa Xuân năm 1967, khi Ted bắt đầu với một mối quan hệ tình cảm.

Đó cũng là lý do và nguyên nhân khiến cuộc đời của Ted trở thành bi kịch.

Ted đã gặp gỡ một cô gái, cô là tất cả những gì mà Ted mơ ước về người phụ nữ của đời hắn. Nàng rất xinh đẹp và được sinh ra trong một gia đình rất giàu có ở California. Ted không bao giờ có thể tin được một người con gái với đẳng cấp cao quý như nàng, lại có thể thích một người đàn ông như hắn.

Và mặc dù đời sống của họ có quá nhiều điểm cách biệt, nhưng oái ăm thay, như là một định mệnh nghiệt ngã, họ lại có cùng sở thích như chơi trượt tuyết. Sau nhiều lần cùng nhau vui chơi trượt tuyết, Ted đã đem lòng yêu thương cô gái đó, nàng thật sự là mối tình đầu say đắm của Ted, và cũng là người đàn bà đầu tiên đã cùng hắn ân ái. Tuy nhiên, người con gái ấy lại không nghĩ về Ted như Ted đã nghĩ về cô ấy.

Bởi vì, với cô, Ted thực sự không có hướng đi nào để có thể đến một tương lai tốt đẹp.

Ted đã khó khăn và cố gắng rất nhiều, mong gây được ấn tượng tốt với nàng, Ted có thể làm tất cả mọi việc, kể cả nói dối, nhưng tất cả đều vô ích, vì cô gái đã chẳng bao giờ quan tâm và cảm thấy hài lòng.

Ted đã giành được học bổng mùa hè của Đại học Stanford danh giá, cũng chỉ để gây ấn tượng với nàng, nhưng tại Stanford sự non nớt của Ted đã bị phơi bày. Ted không hiểu tại sao mặt nạ mà mình sử dụng lại bị thất bại như thế.

Bước hụt hẫng đầu tiên này, như dự báo bao nhiêu sự phức tạp khác đang chờ đợi Ted và sẽ kết thúc như những cơn giông bão.

Năm 1968, sau khi bạn gái của Ted tốt nghiệp từ Đại học Washington, cô đã cắt đứt chuyện tình cảm với Ted. Cô ấy là một phụ nữ rất thực tế và hình như cô cũng nhận ra rằng, Ted  gđã có nhiều sai sót nghiêm trọng, nên đã quyết định loại Ted ra khỏi cuộc của của mình.

Ted hoàn toàn suy sụp, tất cả mọi sự vật hình như đều tan biến, kể cả việc học, cuối cùng Ted đã từ bỏ tất cả. Tuy nhiên, Ted vẫn cố giữ liên lạc với người tình, bằng cách viết cho cô những bức thư, hy vọng có thể nối lại mối tình tuyệt vọng, nhưng cô gái hình như chẳng mấy quan tâm đến những điều Ted nghĩ, cũng như không bao giờ muốn trở lại với Ted.

Quá buồn khổ và tuyệt vọng, nhưng Ted không thể nào quên được cô gái, và cũng không có cách nào xóa bỏ hình bóng của nàng ra khỏi tâm trí mình. Đó là nỗi ám ảnh bi thương và đau đớn nhất trong cuộc đời của hắn, và cũng chính vì vậy, đã dẫn đến hàng loạt các vụ án gây bàng hoàng cho cả thế giới.

Vấn đề càng trở nên tồi tệ hơn, khi vào 1969, Ted Bundy biết được sự thật "mẹ đẻ" ra hắn, lại chính là người chị gái, và cha mẹ lúc bấy giờ, thật ra là ông bà ngoại.

Sự việc bất ngờ này đã có một ảnh hưởng khá nghiêm trọng đối với Ted. Thái độ của Ted đối với mẹ của mình tuy không thay đổi nhiều, nhưng Ted đã trở nên cáu kĩnh và khó chịu hơn với cha dượng.

Thật khó dể kết luận, liệu khi biết mẹ của mình đã lừa dối mình suốt bao nhiêu năm trời, đã có thể là nguyên nhân làm ảnh hưởng đến tâm trí của Ted. Vì trong suốt những năm học trung học cũng như đại học, những người gần gũi với Ted đều nghi ngờ về hạnh kiểm của hắn, cũng như nghĩ hắn là một kẻ hay ăn cắp vặt.

Có lẽ bản chất tâm thần của Ted đả hé lộ từ thời đó, nhưng những người chứng kiến hành vi không tốt của hắn, họ không thể nào hiểu được ý nghĩ cũng như những việc ăn cắp mà Ted đang làm. Ngoài ra, những cảm giác kinh hãi, sợ sệt cũng như những nguy hiểm từ sự phấn kích khi ăn cắp càng hiện rõ trong Ted.

Ăn cắp mà không có cảm giác tội lỗi, trong thực tế chính là đặc điểm phổ biến ở những kẻ tâm thần.

(Đón đọc kỳ 2)

Hận tình (Kỳ 2)


 Linda Ann Healey


Chuyện Cấm Cười / Pmanth - Theo Trutv


 Sự thay đổi

Ted đã thay đổi từ một người rất nhút nhát, sống nội tâm, biến thành một người hoàn toàn mới với những đặc tính nổi trội hơn hẳn mọi người, như để chứng minh với thế giới về con người của mình. Chàng cũng ghi danh theo học tại Đai học Washington và nghiên cứu về môn tâm lý học, một chủ đề chàng luôn tỏ ra rất xuất sắc. Rồi Ted đã trở thành sinh viên danh dự và rất được các giáo sư của trường đặc biệt yêu thích.

Đó cũng chính là khoảng thời gian Ted gặp Elizabeth Kendall, một phụ nữ mà Ted đã sống chung khá lâu, gần 5 năm. Elizabeth làm việc như một thư ký, cô hơi nhút nhát và có tính tình khá trầm lặng, một phụ nữ  đã ly dị, cô tìm thấy ở Ted một người cha hoàn hảo cho đứa con gái của mình.

Từ lúc đầu gặp Ted nàng đã dành cho Ted một tình cảm sâu đậm và cũng muốn kết hôn với Ted. Tuy nhiên, Ted nói chàng chưa sẵn sàng, vì chàng vẫn còn quá nhiều việc phải thực hiện. Elizabeth cảm thấy hình như Ted đã không yêu cô như cô đã yêu Ted, đã nhiều lần nàng cảm thấy Ted đang gặp gỡ những phụ nữ khác. Tuy nhiên, cô vẫn hy vọng một ngày nào đó, Ted sẽ thay đổi và trở về bên nàng. Cô không hề biết về mối tình cảm của Ted và người yêu cũ ở California, họ tiếp tục liên lạc và gặp gỡ nhau.

Bề ngoài, cuộc sống của Ted trong những năm 1969 - 1972 trông có vẻ thay đổi tốt hơn rất nhiều. Chàng rất tự tin và hy vọng vào tương lai của mình. Ted bắt đầu gửi đơn xin theo học ở nhiều trường luật khác nhau, cùng lúc Ted trở thành một nhà hoặt động chính trị, chàng cũng ráo riết cho các chiến dịch vận động bầu cử, bầu lại thống đốc Washington. Ở vị trí này, sẽ cho phép Ted có thể hình thành và liên kết với những chính trị gia quyền lực trong Đảng Cộng hòa.

Ngoài giờ họcTed cũng tình nguyện làm việc thêm tại một bệnh viện. Chàng thật sự cảm thấy hài lòng với cuộc sống trong thời điểm này, tất cả mọi thứ dường như đang đi theo đúng hướng mà chàng mong muốn. Thậm chí chàng còn được cảnh sát Seattlle khen ngợi vì đã cứu được một đứa bé 3 tuổi sắp chết đuối dưới hồ.

Vào  năm 1973, trong một chuyến đi công tác cho Đảng Cộng hoà đến California, Ted đã gặp lại người tình cũ của mình. Cô đã rất  ngạc nhiên trước sự thay đổi quá nhiều ở Ted. Trông chàng thật tự tin và trưởng thành, không phải vô bổ như xưa. Thế là, họ gặp nhau thêm nhiều lần sau đó, Ted đã không nghĩ gì đến người bạn gái đang chờ đợi ở nhà của mình, là Elizabeth. Chàng lãng mạn tán tĩnh người phụ nữ đáng yêu ở California, và cô ấy một lần nữa đã rơi vào lưới tình của Ted.

Hôn nhân là một chủ đề được Ted đề cập đến nhiều lần trong những cuộc hẹn hò thân mật của hai người. Tuy nhiên, sự say đắm, lãng mạn đột ngột chấm dứt. Mọi việc hoàn toàn thay đổi, Ted hình như đã mất hết sự hứng thú và không còn quan tâm đến người phụ nữ ấy nữa, chàng đột nhiên lạnh lùng, chán nản.... Người con gái ấy, thật sự bối rối về sự thay đổi của Ted.

Vào tháng 2 năm 1974, không có lời giải thích nào, Ted hoàn toàn chấm dứt mọi liên lạc với nàng. Kế hoạch trả thù của Ted kể như đã thành công. Chàng đã từ chối cô gái như cô ấy đã từng từ chối Ted dạo nào. Thế là, nàng đã chẳng bao giờ nhìn thấy hoặc nghe được bất cứ điều gì về chàng thêm một lần nào nữa.

Án mạng 


 Linda Ann Healey
 Lynda Ann Healy

Lynda Ann Healy là một cô gái trẻ rất tài năng. Ở tuổi 21, mỗi buổi sáng những cư dân trog vùng thường được nghe từ đài phát thanh, giọng nói dịu dàng, thân thiện của nàng, thông báo các chi tiết cho khu trượt tuyết lớn ở miền Tây Washington. Nàng là một cô gái xinh đẹp, cao, gầy, đẹp một cách trong sáng với mái tóc dài và nụ cười thật ấm áp.

Cô được sinh ra từ một gia đình trung lưu, cô cũng là một ca sĩ tuyệt vời, đang theo học cấp cao tại Đại học Washington, chuyên ngành tâm lý học. Cô cũng rất thích thú trong công việc giúp đỡ các trẻ em bị khuyết tật về tinh thần.

Lynda cùng với 4 cô gái trẻ khác cùng thuê một ngôi nhà gần trường. Một buổi chiều ngày 31, tháng 1, năm 1974, cô và mấy người bạn, đã đi mua vài chai bia cho bữa ăn tối tại tiệm Dante, một quán rượu mà các sinh viên của trường thường lui tới. Họ ở lại đó một lát, và Lynda về nhà, ngồi xem truyền hình đồng thời nói chuyện với bạn trai trên điện thoại. Sau đó nàng đi ngủ. Các bạn của nàng đã không nghe thấy tiếng ồn nào phát ra từ phòng của lynda đêm đó.

Lynda có thói quen thức dậy mỗi buổi sáng vào lúc 5:30, để làm việc cho đài phát thanh. Chiếc đồng hồ báo thức thường được tắt lúc 5:30.  Tuy nhiên, sáng nay, thật kỳ lạ, tiếng chuông báo thức cứ tiếp tục reo vang inh ỏi. Cuối cùng, một người bạn của cô phải sang phòng của cô để tắt, đồng thời, đúng lúc đó, cô ấy cũng nhận được điện thoại từ đài phát thanh gọi tới hỏi Lynda ở đâu? Sao chưa tới đài để làm việc.

Chìếc giường ngủ của Lynda vẫn xếp đặt ngăn nắp, không có vẻ gì đã bị xáo trộn, vì vậy, cô bạn của Lynda nghĩ, có lẽ Lynda đang trên đường tới chỗ làm.

Chiều hôm đó, khi cha mẹ của Lynda gọi đến hỏi tại sao không thấy cô về ăn tối như thường lệ, thì tất cả mọi người đã trở nên lo lắng, không ai nhìn thấy cô một lần nào nữa, cô dường như đã biến mất.

Cha mẹ của cô đã gọi cho cảnh sát. Trong phòng Lynda, họ phát hiện ra rằng, chăn mền của nàng đã được gấp xếp, nhưng không giống cách mà Lynda hay làm. Có lẽ một người khác đã làm chuyện đó. Thật kỳ lạ, khi một cái áo gối và một miếng trải giường đã biến mất trên chiếc giường được xắp xếp cẩn thận.

Có một vết máu nhỏ, cùng nhóm máu như Lynda được tìm thấy trên gối và tấm trải giường dưới cùng. Máu cũng dính trên chiếc áo ngủ đã được treo cẩn thận trong tủ quần áo. Một bộ trang phục của cô đã biến mất.

Điều đáng chú ý là một trong những cánh cửa của ngôi nhà đã không khóa, khi các cô gái luôn luôn cảnh giác và lúc nào cũng khóa chặt.

Ban đầu, cảnh sát không tin rằng Lynda là nạn nhân của một vụ phạm tội, vì hiện trường tuyệt nhiên không có dấu vân tay, tóc hoặc bất cứ bằng chứng nào có thể thu thập được.

Cuối cùng, cảnh sát đã kết luận một kẻ nào đó đã xâm nhập vào nhà, cởi chiếc áo ngủ của Lynda ra và treo nó vào trong tủ quần áo, rồi thay một bộ quần áo khác cho cô, làm giường lại, lấy một tấm trải giường quấn vào cái xác của Lynda và mang nàng ra khỏi nhà một cách lặng lẽ không có chút tiếng động. (sẽ đăng tiếp kỳ 3)
.......................

Tuesday, January 21, 2014

Vụ án đau đầu của người mẹ giết hai con


 Người mẹ hư hỏng và cái chết của 2 đứa trẻ (Kỳ 2) - 1

Khám phá.vn/Mai Tân - Theo Truetv

Alice Crimmins, một người phụ nữ đẹp và hấp dẫn, thường được nhắc tới với những vụ bê bối tình cảm bất ngờ bị khởi tố vì có liên quan đến việc giết hại hai đứa con của mình.

“ Một người đàn bà hư hỏng như Alice thì có thể làm bất cứ điều gì.” Công tố viên đã nói về người đàn bà này như vậy khi trực tiếp điều tra vụ án.

Vụ việc quan đến Alice Crimmins bị phát hiện vào năm 1965 và kéo dài cho tới tận 12 năm tiếp sau đó.
Cái tên Alice Crimmins đã trở thành chủ đề nóng thu hút độc giả của các tờ báo lá cải giữa sau những năm 1960 và hết những năm 1970.

Cuộc sống hôn nhân

Gia đình Alice Crimmins sống trong quận Queen của thành phố New York. Chồng Alice, Edmund Crimmins là một thợ sửa máy bay. Alice ở nhà chuyên lo những công việc nội trợ và chăm lo cho cậu con trai Eddie Jr, 5 tuổi và cô con gái út Alice Marie 4 tuổi. Alice hay gọi con gái là Missy.

Vợ chồng Crimmins khá lệch nhau về ngoại hình, Edmund là một người đàn ông to cao, bụng phệ, trong khi đó vợ ông lại là một người đàn bà nhỏ nhắn và hấp dẫn với mái tóc đỏ, đôi mắt xanh nhạt.

Cuộc hôn nhân của họ đã có những năm tháng đầu hạnh phúc. Tuy nhiên những năm sau đó, do công việc, Edmund liên tục phải đi xa, ít dành thời gian cho gia đình. Điều này khiến Alice rất cô đơn và thất vọng. Cô nhanh chóng tìm đến sự an ủi ở những người đàn ông khác trong các cuộc tình vụng trộm. Họ chia tay nhau vài năm sau đó.

 Người mẹ hư hỏng và cái chết của 2 đứa trẻ (Kỳ 1)

Sau khi chia tay, Alice làm hầu bàn cho một cửa hàng đồ uống, cuộc sống của cô hoàn toàn khác trước. Cô có cơ hội tiếp xúc với nhiều thành phần hơn và bắt đầu cặp với Anthony Grace, một người đàn ông lớn tuổi nhưng rất giàu có. Anthony là một chủ thầu xây dựng lớn, bạn bè ông có nhiều thành phần, từ những chính trị gia nổi tiếng tới những tên lưu manh nhất New York.

Một lần, Alice cùng Anthony đi dự tiệc trên một con tàu sang trọng, mải vui với người tình, cô quên mất mình phải quay về đón Eddie và Missy.

Quá giờ đón, người giữ trẻ gọi cho Edmund Crimmins. Edmund đón bọn trẻ và đưa chúng về nhà mẹ vợ mình, bà Alice Burke. Anh giận dữ đòi khởi kiện Alice vì sự vô trách nhiệm này. “Cô ta không đủ tư cách để chăm sóc bọn trẻ.”

Một tuần sau đó, vụ việc được đưa ra tòa giải quyết. Tuy nhiên, Alice không bị phạt hay bị mất quyền nuôi con.

Người mẹ thờ ơ

Một buổi sáng nắng nóng ngày 14/7/1965, Alice bất ngờ gọi cho chồng mình để thông báo việc mất tích của Eddie và Missy. Cảnh sát cũng nhận được tin hai đứa trẻ đã mất tích.

Thông báo mất tích được dán tại nhiều điểm công cộng sau một ngày tìm kiếm nhưng không có kết quả.
Hai thám tử Gerard H. Piering và George Martin được điều đến ngôi nhà của Alice để thu thập thêm thông tin vụ mất tích.

Tại phòng bọn trẻ hay chơi, cửa sổ hàng ngày vẫn hay đóng đã bị mở toang, có thể hai đứa trẻ đã bị bắt cóc qua cánh cửa đó. Họ nghi ngờ đây là một vụ bắt cóc có tính toàn trước.

Ngay khi tiếp xúc với Alice, thám tử Piering đã nhận ra điểm gì đó bất thường trong thái độ của người đàn bà xinh đẹp này. Cả hai đứa con bị bắt cóc, nhưng Alice không khóc cũng không tỏ ra hoảng hốt. Tiếp hai thám tử, Alice trang điểm rất kĩ, trang phục gọn gàng và đi một đôi giày khá cao. Cô khác hẳn một người mẹ đang cố gắng tìm con mình.

“Người phự nữ này là mẹ bọn trẻ?”, Piering quay sang nói với Martin với giọng ngờ vực. “Để tôi thẩm vấn cô ta.”

Sau khi thu thập lời khai, hai thám tử cùng cảnh sát tìm kiếm những khu vực có khả năng. Họ nhanh chóng tìm thấy cô bé Missy trong một cái hố không sâu tại bãi đất trống cách đó vài dặm. Cô bé đã bị bóp cổ cho đến chết.

Tin vào cảm giác bất thường của mình khi tiếp xúc với Alice, Piering nghĩ Alice có liên quan đến vụ này, ông lên một kế hoạch bất ngờ.

Alice được đưa đến khu vực bãi đất trống mà không biết trước mình sẽ được nhìn thấy điều gì.
Xác một cô bé nằm sấp trên đất, tóc tết gọn gàng. Cô bé mặc một chiếc áo thun trắng và quần nhỏ màu vàng, một sợi dây thắt quanh cổ cô bé.

Edmund sụp xuống khi nhìn thấy đứa trẻ. Piering nghe tiếng Alice nói rất nhỏ rằng, “ Đó là Missy.”
Hai vợ chồng được cảnh sát hỗ trợ đưa quay trở lại xe. Alice hoàn toàn không khóc. Cô ngồi im trong xe không nói gì.
\
Với kinh nghiệm nhiều năm, thám tử Piering đã cảm thấy có điều gì đó bất thường từ người phụ nữ xinh đẹp Alice Crimmins. Chắc chắn cô ta có liên quan đến cái chết của hai đứa trẻ.

Suốt thời gian phát hiện cái xác của Missy, Alice không biểu hiện bất cứ cảm giác đau buồn nào, cô hoàn toàn im lặng. Cô chỉ bắt đầu khóc khi trở về nhà và đối diện với ống kính truyền hình với các câu hỏi dồn dập từ phía các phóng viên.

Theo thám tử Piering, “Người đàn bà này không quan tâm đến con cái. Cô ta lạnh lùng khi nhìn thấy xác con mình, chỉ cố khóc trước ống kính để tỏ vẻ đau buồn với ý định che đậy tội ác.”

Khi cảnh sát có mặt vào sáng hôm sau để thu thập thêm thông tin, họ đã thực sự nổi giận khi phải chờ đợi người phụ nữ này trang điểm thật kĩ rồi mới tiếp họ. “Một người mẹ hư hỏng. Không đau khổ và lo lắng như những bà mẹ khác. Cô ta quan tâm đến diện mạo của mình hơn là bọn trẻ.”

Vài ngày sau đó, xác cậu bé Eddie được tìm thấy. Gia đình Crimmins bất hạnh tổ chức tang lễ cho hai đứa trẻ xấu số trong sự thờ ơ, vô cảm của Alice.

Alice nhanh chóng quay lại cuộc sống hàng ngày, nấu cơm và dọn dẹp nhà cửa…, cô không quên những bữa tiệc cùng với bồ của mình tại các quán rượu và câu lạc bộ đêm.

Hành vi này của cô thực sự trở thành tâm điểm của mọi sự nghi ngờ. Người ta nghi ngờ cô có liên quan đến cái chết của hai đứa bé. Chồng cô Edmund thì khẳng định điều đó.

Edmund Crimmins cho biết, từ khi chia tay, anh đã bí mật cài máy nghe trộm từ phòng ngủ xuống đến tầng hầm đế có thể theo dõi Alice. Anh đã bắt được cô cùng với người tình ngay tại nhà nhiều lần.

“Alice không chỉ là một người đàn bà hư hỏng trong quan hệ hôn nhân, cô ấy còn rất nham hiểm.”
Một phần lý do khiến thám tử Piering nghỉ ngờ người đàn bà này chính một số bằng chứng ông thu thập được và cài chi tiết mâu thuẫn trong lời khai của Alice.


Người mẹ hư hỏng và cái chết của 2 đứa trẻ (Kỳ 2) - 1
Alice Crimmins khóc trước các phóng viên


Lần đầu bước vào căn phòng của bọn trẻ, Piering đã di chuyển một chiếc đèn bàn trên kệ tới khu vực của sổ với hi vọng tìm ra cách mà hung thủ đang mang bọn trẻ đi, ông phát hiện chiếc đèn đã được lâu chùi một cách cẩn thận mặc dù một số đồ đạc khác trên kệ rất bụi.

Theo lời khai của Alice, trước hôm xảy ra vụ mất tích, cô và bọn trẻ vẫn còn ăn tối cùng với nhau. Hôm đó chúng ăn một số đồ ngọt và đồ đông lạnh có sẵn vì cô không có nhiều thời gian chuẩn bị sau khi từ chỗ làm về.

Tuy nhiên, Alice lại khai với cảnh sát ngày hôm sau rằng cô và bọn trẻ đã ăn thịt bê tối hôm đó.

Khám nghiệm tử thi của Missy, cảnh sát thấy trong dạ dày cô bé có ít mì ống, không hề có thịt như lời khai của Alice. Có thể hung thủ đã cho Misy ăn một chút trước khi ra tay.

Cũng theo lời khai của Alice, cô khai rằng mình đã đổ xăng tại trạm xăng Gulf lúc 9h tối hôm đó. Nhưng theo lời nhân viên ở đấy, hôm đó trạm xăng đóng cửa từ lúc 5h để tiếp nhiên liệu.

Kết quả khám nghiệm tử thi cho biết, Missy đã chết khoảng 6 đến 12 tiếng trước khi được phát hiện và không quá 2 tiếng sau bữa ăn.

Alice khai rằng tối hôm đó cả nhà ăn tối lúc 7h30 và cô còn kiểm tra bọn trẻ trước khi đi ngủ.
Alice đã nói dối hay nhầm lẫn về thời gian? Liệu bọn trẻ đã bị bắt cóc và hung thủ đã cho chúng ăn trước khi giết chúng?

Không có bằng chứng cụ thể để buộc tội Alice. Cảnh sát đã bị mất theo dõi cô trong hơn một năm.

Họ theo dõi những hoạt động hàng ngày của Alice và nghiên cứu những cuộn băng nghe lén do Edmund cung cấp với hi vọng tìm ra chi tiết nào đó liên quan. Nếu Alice là kẻ giết người, cô ta phải có đồng phạm vì địa điểm và thời gian tìm thấy xác bọn trẻ cho biết chúng đã được di chuyển trước đó.

Từ những cuốn băng, cảnh sát thực sự bất ngờ về sự hư hỏng, buông thả của người mẹ trẻ này.

Edmund đã gây sự với Alice ngay tại nơi làm việc khiến Alice bị sa thải. Cô vất vả tìm kiếm những công việc tạm bợ và trở nên thất nghiệp trong một thời gian dài. Điều này đẩy cô đến với rượu và trở nên thù hằn với cảnh sát khi biết họ đang cố buộc tội cô liên quan đến giết người.

Một năm rưỡi sau cái chết của bọn trẻ, công tố viên Nat Hentel nhận được một bức thư với nội dung cung cấp thông tin vụ án từ một người không kí tến và ngày 30/11/1966.

Nhân chứng cho biết họ đã có mặt gần khu nhà Alice đêm trước khi xác cô bé Missy được tìm thấy. Lúc đó khoảng 2h sáng. Họ nhìn thấy một người phụ nữ ôm một chiếc chăn màu trắng, tay dắt một đứa trẻ đang theo sau một người đàn ông cao lớn, tóc đen, mũi to. Người này quay lại nói lớn yêu cầu cô đi nhanh hơn.
Người đàn ông ôm chiếc chăn trắng đặt ở ghế sau cùng với người phụ nữ và đứa trẻ. Chiếc xe di chuyển hướng tới đại lộ Kissen.

Một năm rưỡi sau cái chết của bọn trẻ, công tố viên Nat Hentel nhận được một bức thư với nội dung cung cấp thông tin vụ án từ một người không ký tên.

Theo thông tin nhân chứng cung cấp, hung thủ có thể là một phụ nữ cùng một người đàn ông trung tuổi với dáng vẻ cao to, tóc đen.

Cảnh sát tỏ ra lạc quan hơn với hi vọng thông tin sẽ giúp ích nhiều cho cuộc điều tra đang bế tắc.

Điều tra 39 căn hộ trên khu vực được xác định là nhà của nhân chứng, đối chiếu nét chữ trong bức thư nặc danh với nét chữ thu được của các đối tượng, bước đầu cảnh sát xác định được danh tính của nhân chứng là Sophie Earomirski.

Sophie Earomirski là một người phụ nữ trung tuổi có chút vấn đề về trí nhớ.

Khi các nhà điều tra đặt câu hỏi về những thông tin liên quan đến bức thư cung cấp thông tin vụ án, Sophie nói rằng mình có thể nhận diện người đàn bà tối hôm đó chính là Alice Crimmins.

Sophie biết Alice sống cùng khu phố và biết rõ cô hơn thông qua những thông tin báo chí cung cấp liên quan đến vụ án.

Dựa trên thông tin của Sophie, cảnh sát đặt ra giả thiết Alice đã giết những đứa trẻ của mình với sự hỗ trợ của người tình.

Alice từng khai nhận với thám tử Piering rằng đêm trước hôm xáy ra vụ mất tích, cô có gọi điện đến quán bar Capris và nói chuyện với Anthony Grace.

Có thể Alice đã gọi điện để thông báo cho Anthony mình đã giết Missy trong lúc nóng giận, cậu bé Eddie đã nhìn thấy điều đó. Alice cần sự hỗ trợ của Anthony để giải quyết chuyện này ?

Cái chăn màu trắng Sophie nhìn thấy Alice và người đàn ông lạ mang đi đêm hôm đó chính là cô bé Missy và đứa trẻ được dắt đi là Eddie.

Dựa trên đặc điểm người đàn ông được nhắc đến trong bức thư, ngoài Anthony, cảnh sát tập trung điều tra người đàn ông có tên là Joseph Rorech. Rorech là một trong số những người tình của Alice trong thời gian đó.

Cảnh sát đã kiểm tra những cuộn băng nghe trộm cuộc điện thoại giữa Alice và Rorech. Tuy nhiên, Alice không hề đề cập chi tiết nào liên quan đến cái chết của bọn trẻ.

Tiến hành thẩm vấn Rorech, Rorech cho biết Alice đã từng nhắc với mình về việc kiện tụng của chồng cũ liên quan đến hai đứa trẻ. Alice nói rằng thà giết bọn trẻ còn hơn giao chúng cho chồng cũ.

Lời khai của Rorech có thể buộc tội Alice. Tuy nhiên, sau đó Rorech đã liên hệ lại với cảnh sát và phủ nhận lời khai của mình, đồng thời đưa ra bằng chứng ngoại phạm đêm hôm đó của mình.

Ngày 11/9/1967, hai năm hai tháng sau cái chết của Missy và Eddie, Alice Crimmins bị bắt vì bị nghi ngờ liên quan đến cái chết của Missy. Chưa có bằng chứng buộc tội Alice giết Eddie vì giám định y khoa không đưa ra được kết quả giám định cụ thể với cái xác đang phân hủy.

Báo chí lại được dịp nhắc tới người phụ nữ này khi đăng tin Alice bị bắt giữ trong bộ trăng phục bó sát, gợi cảm. Họ nhắc đến Alice như một biểu tượng mới của cuộc cách mạng sex ở Mỹ.

Phiên tòa xét xử Alice được bắt đầu vào tháng 5/1968. Thẩm phán Peter Farrell chủ trì phiên tòa.
Khi đại diện pháp y cung cấp thông tin về cái xác cô bé Missy, Alice đã bất ngờ khóc thành tiếng và ngất ngay tại tòa. Phiên tòa bị gián đoạn trước hành vị được coi là diễn kịch của Alice.

Việc Rorech với tư cách nhân chứng cung cấp thông tin việc Alice có ý định giết bọn trẻ khi xảy ra kiện với chồng cũng khiến Alice phản ứng mạnh mẽ. Cô không nghĩ người tình của mình lại có thể làm chứng chống lại mình trước tòa.

Nhân chứng quan trọng nhất là Sophie Earomirski.

Sau khi tường thuật lại những gì mình chứng kiến, Sophie đã chỉ thằng về phía Alice và tuyên bố, ‘’Chính là người phụ nữ này’’ khi được cảnh sát yêu cầu nhận diện.

Alice thừa nhận mình có nới với Rorech chuyện giết bọn trẻ, nhưng đó chỉ là trong phút nóng giận vì vụ kiện với chồng cũ.

Trong phiên tòa, ngoài những bằng chứng liên quan đến cái chết của hai đứa trẻ, những câu chuyện liên quan đến việc bồ bịch, ngoại tình bên ngoài hôn nhân của Alice cũng được nhắc tới.

Và lời kết của một công tố viên khi đề cập đến chuyện này đó là, ‘’Một người đàn bà hư hỏng như Alice Crimmins có thể làm bất cứ điều gì.’’

Khi nghe tòa tuyên bố mình có thể đối mặt với bản án cáo nhất cho tội giết cô bé Missy, Alice đã ngất đi vì sợ hãi.

Tháng 3/1971, 6 năm sau cái chết của bọn trẻ, phiên tòa xét xử Alice lại được mở lại. Lần này, Alice bị buộc tội liên quan đến cả cái chết của Eddie.

Tuyên án

Bồi thẩm đoàn trở lại phiên tòa với lời tuyên án nghiêm khắc nhất: Alice phạm tội giết người mức độ một. Nhiều người tại tòa bật khóc ngay tức khắc. Alice liên tục kêu thất thanh: “Không, trời ơi, không bao giờ!”.

Mẹ của cô ta, Alice Burke, cũng liên tục đập tay vào đầu và thét lên những lời phản đối. Người anh trai Alice cũng khẳng định không bao giờ em gái có thể ra tay sát hại các con của cô ấy. Điều đặc biệt là chồng cũ của bị cáo, Edmund Crimmins, cũng khóc và cho rằng kết luận của tòa là bất công. Nước mắt lăn trên má của Edmund.

Một người tham dự phiên tòa gào lên rằng ông ta ở bên Alice một ngày trước đó. “Giết bồi thẩm đoàn đi”, ông này hét lên.

Tuy nhiên, phiên xét xử Alice Crimmins lần hai vẫn kết thúc và người phụ nữ này phải lĩnh bản án ngồi tù suốt phần đời còn lại.

Alice Crimmins đi tù hơn 2 năm sau đó. Tới năm 1973, Alice được thả tự do. Chánh án tòa án tối cao ở Brooklyn đã xem xét lại vụ án gây nhiều tranh cãi này và tuyên bố rằng không có bằng chứng nào kết tội Alice và yêu cầu bắt đầu điều tra lại toàn bộ vụ án.

Một cuộc chiến công lý lại bắt đầu trong khi Alice được tự do với số tiền bảo lãnh alf 25.000 đô la. Tháng 2/1975, Tòa án đưa Alice ra xét xử với những lập luận và bằng chứng như những năm về trước. Alice vẫn bị kết án tù.

Năm 1977, một tờ báo đăng tin Alice đã tham gia một chương trình đặc biệt trong tù. Theo đó, cũng như các tội nhân khác, Alice được tự do vào mỗi dịp cuối tuần và được phép cưới Anthony Grace.

Báo chí đăng hình “bà” Alice Grace chụp ảnh cùng chồng trên một con thuyền du lịch. Ngày hôm sau, tờ báo tiếp tục đăng hình Alice đang cùng chồng bước vào chiếc xe Cadillac màu trắng. Điều này dấy lên nhiều tranh cãi. Những chính trị gia ở New York cho rằng một tội nhân không được phép tự do như thế.
\
Những điều gây tranh cãi

Liệu Alice có thực sự gây nên những cái chết cho con mình, hay những lời buộc tội cô ta đã có nhiều vấn đề trong quá trình điều tra? Những câu hỏi đó luôn gây nên tranh cãi gay gắt. Theo những chuyên gia về tội phạm, Alice chỉ có thể gây ra các thảm án đó khi có sự trợ giúp của ít nhất 2 người. Tuy nhiên, ngoài Alice thì không ai bị kết án trong suốt các phiên tòa, từ 2 lần sơ thẩm tới phiên phúc thẩm.

Theo các nhà tâm lý học, vụ án có nhiều điều khó hiểu và phi lý.

Đầu tiên, có điều kỳ lạ trong chính trí nhớ của Alice Crimmins. Cô ta nói rằng cô cho các con ăn thịt bê lúc 7h30 sáng 13/7/1965. Sau đó cô ta đưa chúng đi chơi bằng ô tô, trở về nhà lúc 21h và cho các con đi ngủ. Alice trông chúng tới nửa đêm và đưa bé Eddie đi tắm. Missy vẫn nằm ngủ trên giường vì không muốn tắm. Sau khi bé Eddie đi ngủ, Alice chốt cửa với hệ thống khóa bằng mắt để các bé không mở tủ lạnh vào ban đêm. (Trong khi đó cảnh sát cho rằng Alice khóa cửa để ngăn các con sang phòng vì khi đó Alice đang ở với bạn trai). Alice cho chó ăn, tắm rửa và đi ngủ lúc 4h sáng.

Lời khai của Alice có những điều khó hiểu như tại sao khi các con ngủ, Alice vẫn phải ở đó trông tới đúng nửa đêm, không sớm hơn, không muộn hơn. 2 nhân viên bán xăng gần đó cho biết Alice tới đổ xăng lúc 17h30 trong khi 21h cô mới về tới nhà.

Thêm vào đó, nhiều chuyên gia cũng như 2 thành viên bồi thẩm đoàn cho biết dù Alice khăng khăng cho các con mình ăn thịt bê nhưng khám nghiệp tử khi lại không tìm được dấu hiệu gì của thịt bê trong dạ dày của Missy.

Trong khi đó, điều tra viên Gerard Piering lại tự tin về trí nhớ của mình tới mức “quên” thực hiện các phương thức điều tra cần thiết như chụp ảnh, ghi chép những gì tại hiện trường lúc đó.

Còn Joe Rorech và Sophie Earomirski lại có những trí tưởng tượng khó hiểu.

Tại phiên tòa đầu tiên, Rorech khai rằng bạn gái cũ của anh ta thú nhận “Em đã giết con”. Nhưng khi tòa tuyên Alice chỉ sát hại bé gái thì người này lại khai là bị cáo nói “Em đã giết các con”.

Nếu bị cáo thú nhận chỉ giết Missy thì Rorech không có vai trò gì trong phiên xử lần hai. Tuy nhiên Rorech lại khai rằng lúc đó Alice Crimmins nói với anh ta: “Tha thứ cho em, Joe, em đã giết con gái” và “Em không muốn giết thằng bé”. Những lời khai bất nhất của Rorech khiến nhiều việc trở nên đáng nghi ngờ.

Trong khi đó, trí nhớ của Sophie Earomirski cũng không phải là ngoại lệ. Bà này chỉ biết chắc chắn rằng người phụ nữ đó là Alice Crimmins nhưng khi nghe đoạn hội thoại thì bà lại nghe không rõ, lúc nhớ lúc không.
Mai Tân (Theo Trutv) (Khampha.vn)
 
Copyright © 2013 Kinh dị (Pmanth) | Powered by Blogger